Friday, July 24, 2009

24/07/2009

(TuanVietNam) - Không chọn nhiều vấn đề để nói nhưng những câu chuyện mà "Phát ngôn & Hành động ấn tượng" kể ra trong tuần này đều gần gũi với đời sống người dân trong nước.



Ngư dân phải tự cứu mình?

Dư luận không thể không bày tỏ thái độ phản đối mạnh mẽ trước việc Trung Quốc bắt giữ, ngăn cản người dân Việt Nam ra đánh bắt cá trên biển, đâm chìm tàu của ngư dân ở Quảng Ngãi đã diễn ra trong mấy ngày qua.

Sự việc diễn ra đúng vụ cá khiến ngư dân của ta phải chịu thiệt đủ đường, thậm chí đã có những thiệt mạng từ những cú va chạm đó. Đã thế, Trung Quốc còn đòi các tàu cá của ta phải nộp phạt. Đây là những hành động và đòi hỏi vô lối, xâm phạm đến lợi ích và sự bình yên của ngư dân VN ở chính vùng biển thuộc chủ quyền của chúng ta.

TS Chu Tiến Vĩnh

"Thật vô lý khi ngư dân hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền của nước mình mà phải đóng phạt. Nên dứt khoát sẽ không có chuyện nộp phạt và Trung Quốc phải thả vô điều kiện các ngư dân đang bắt giữ", TS Chu Tiến Vĩnh, Cục trưởng Cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Chủ tịch Ủy ban liên hiệp nghề cá Việt - Trung, đã lên tiếng phản đối đòi hỏi quá đáng từ phía Trung Quốc (VietNamNet, 23/7).

Ở một góc độ khác, ông Vũ Khang Cường, Phó Tổng Giám đốc Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn (Vietnam MRCC), tiếc rằng đã chưa tỏ ra thông cảm và thấu hiểu với những khó khăn mà ngư dân ta đang gặp phải.

"Ý thức người đi biển, đặc biệt là các ngư dân trên tàu đánh cá còn kém. Về nguyên tắc, khi đi biển ngư dân cần có kiến thức tự bảo vệ mình, nếu chẳng may có tai nạn xảy ra thì phải biết tự làm gì trước khi có tàu cứu nạn tới. Ở Việt Nam chúng ta còn rất kém về vấn đề này đặc biệt là ngư dân", ông Cường đã phát biểu, bên cạnh việc đưa ra khuyến cáo rằng ngư dân ra khơi cần "né" luồng tàu lớn và cho rằng công tác tìm kiếm cứu nạn trên biển ở Việt Nam hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn (Công an nhân dân, 21/7)

"Lời khuyên" của ông Cường đã khiến nhiều người không hài lòng. Nếu gặp phải trường hợp đó, trước hết, các cơ quan chức trách phải cùng lên tiếng và có cách hành động ra sao để ngư dân không phải gánh chịu "tai nạn" thay vì "phàn nàn" về ý thức của ngư dân chứ. Thử hỏi, có ai không lo cho thân mình khi dong buồm ra khơi, nhất là khi ngoài khơi xa đó vẫn luôn có nhiều sóng to, bão lớn!

Việt Nam: Thuận lợi cho các khu tự do kinh tế

TS. Võ Đại Lược

TS Võ Đại Lược cho rằng, phát triển đặc khu kinh tế có ý nghĩa chiến lược đối với VN, nó giúp tạo ra đột phá về thể chế hành chính; đột phá về cơ cấu kinh tế và xã hội, tạo điều kiện nâng cao mức sống và giải quyết vấn đề môi trường. Làm tốt việc xây dựng khu kinh tế tự do là bí quyết quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế của quốc gia.

Hơn ai hết, VN có nhiều điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển nhanh các khu kinh tế tự do. VN như khu đất vàng của khu vực, giống như Hàng Ngang, Hàng Đào của Hà Nội.

"Chỉ tiếc rằng chúng ta chưa biết khai thác, mà chỉ có thể tổ chức bán nước uống và sửa xe đạp", ông Lược nói.

"Ở Hàng Ngang, Hàng Đào, người chủ sở hữu những khu đất vàng này chủ yếu cho người khác thuê để kinh doanh, từ đó họ học hỏi kinh nghiệm rồi từng bước tự làm. "Đây là phương án dân dã nhất và chúng ta không nên bỏ qua kinh nghiệm này", TS Võ Đại Lược đề nghị. (Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 23/7)

Đóng cửa trường học nếu xuất hiện cúm A/H1N1?

Ông Nguyễn Thành Tài

Chánh văn phòng Sở GD&ĐT TPHCM - ông Bùi Khắc Huy cho biết, nếu tình hình dịch cúm lây lan trong trường học diễn biến theo chiều hướng xấu thì có thể sẽ phải đóng cửa tất cả các trường học, cách ly học sinh để đảm bảo an toàn.

Đến chiều 23/7, cúm H1N1 đã loang thành ổ dịch tại 2 trường học ở TP HCM là trường trung học tư thục Ngô Thời Nhiệm, quận 9, với số học sinh xác định dương tính hiện là trên 70. Còn tại Cơ sở 3 Trường trung học tư thục Nguyễn Khuyến, 32 học sinh lên cơn sốt, 2 ca đã xác định dương tính. Các cơ sở này đều đã hình thành "bệnh viện dã chiến", học sinh phải nghỉ học, đi "sơ tán", nhằm đối phó với khả năng lây lan ra cộng đồng

Cũng may đây đang là thời điểm nghỉ hè, học sinh trên địa bàn TP chưa đến trường nhiều. Thế nhưng, mùa học mới cũng đang tới gần. Rõ ràng tình hình dịch cúm H1N1 tại khu vực TPHCM đang trở nên nguy cấp.

Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP HCM - Nguyễn Thành Tài - đã chỉ đạo lưu ý việc điều trị các ca bệnh nặng, tránh để tử vong nhưng không tập trung cho bệnh viện tuyến trên mà sàng lọc phân bố cho các bệnh viện quận huyện.

“Địa bàn tập trung dự phòng ngay là trường học vì hiện thành phố có tới 1 triệu học sinh sắp khai giảng năm học mới và trên 300.000 sinh viên nữa. Trước khai giảng năm học phải khảo sát tất cả trường học, tiến hành vệ sinh, khử trùng”, vị phó chủ tịch nêu. (VnExpress, 23/7)

Lại một lần nữa vấn đề phòng bệnh trong sinh hoạt hàng ngày, vệ sinh cá nhân và phòng bệnh ở những nơi tập trung đông người lại trở nên khẩn thiết, đáng lưu tâm không chỉ trong trường học hay các khu nội trú. Tiếc rằng tại các trường có ổ dịch đã diễn ra cảnh mạnh ai người nấy tháo trường bỏ về nhà hoặc về quê, học sinh chưa được trường tập trung để "có xe đưa các em về nhà an toàn” như kế hoạch mà Ban giám hiệu nhà trường vạch ra ban đầu...

"Né" ung thư bằng phòng bệnh và sống sạch

GS-TS Lê Thế Trung

Là người bỏ nhiều thời gian nghiên cứu những bài thuốc đông y chữa trị ung thư, GS-TSKH Lê Thế Trung, nguyên Giám đốc Bệnh viện 103, Chủ tịch Hội Ung thư Hà Nội, khẳng định: Một số bài thuốc đông y có khả năng hỗ trợ điều trị bệnh ung thư chứ đông y không thể chữa khỏi hẳn được căn bệnh này như phần lớn những ông lang vẫn quảng cáo.

"80-90% các loại bệnh ung thư bắt nguồn từ ăn, uống, thở. Do đó, ăn sạch, uống sạch, sống ở môi trường trong sạch sẽ hạn chế được 80-90% nguy cơ mắc bệnh ung thư", GS Trung nói.

Cùng với việc cho rằng "bệnh ung thư sẽ không phải quá nguy hiểm nếu phát hiện sớm" thì những "cảnh báo" kể trên về các ông lang vườn quảng cáo chữa được ung thư cũng là điều hữu ích với nhiều người để khỏi tiền mất, tật mang. (VTC News, 23/7)

"Nghiêm trọng"

Ông Bùi Văn Chiểu

Hanoi Landmark Tower, tòa nhà có tổng vốn đầu tư 1 tỷ USD, đang được xây dựng được cho là cao nhất Việt Nam và cao thứ 17 trên thế giới. Được khởi công từ năm 1997, đến cuối năm 2008, trước những nghi ngờ và thậm chí tranh cãi nảy lửa về tiến độ công trình, chủ đầu tư dự án Keangnam khẳng định sẽ hoàn thành phần thô các tòa tháp vào tháng 10/2010.

Tuy nhiên, chỉ trong hai ngày 21 và 22/7 đã có 2 vụ tai nạn liên tiếp đã làm 4 người chết tại công trình này.

Trao đổi với VnExpress, Phó giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội Bùi Văn Chiểu nhận định sự việc "là nghiêm trọng". Ông cho rằng với một tòa nhà lớn 70 tầng, đòi hỏi biện pháp thi công an toàn, khâu giám sát chặt chẽ, người thi công không được chủ quan.

"Các công trình lớn, phần nhiều tai nạn xảy ra là do giám sát của cán bộ kỹ thuật chưa tốt, công nhân làm ẩu. Tuy nhiên, 2 ngày xảy ra 2 vụ tai nạn tại Hanoi Landmark Tower thì lỗi không hẳn do người thực hiện", ông Chiểu phán đoán.

Không ai mong đợi những tin xấu như vậy, nhưng Hà Nội và nhiều thành phố khác của VN đang ngày càng có thêm nhiều tòa nhà ngày càng cao hơn, quy mô hơn thì sự an toàn và chất lượng công trình cần được xem trọng và đảm bảo chắc chắn như cam kết về... tiến độ.

"Chuyện hầm đường bộ bị ngập chỉ có ở ta"

Nước ngập mênh mông ở hầm đường bộ (Ảnh: VNE)

Sau hai trận mưa lớn ở Hà Nội, hầm đường bộ Kim Liên Liên, được cho là hiện đại nhất VN, đều biến thành... hồ, nước ngập quá nửa bánh xe. Lần đầu, ông Nguyễn Sỹ Bảo, Giám đốc Ban Quản lý các dự án trọng điểm giao thông đô thị Hà Nội - đại diện chủ đầu tư - giải thích là "do hệ thống bơm chính chưa hoạt động".

Nay, khi trạm bơm chính đã đi vào hoạt động thì không như lời "cam kết " lúc ấy, tình trạng... hầm thành hồ lại xảy ra. Lần này, ông Ngô Quý Tuấn, là Phó giám đốc Ban Quản lý các dự án trọng điểm đô thị Hà Nội, nói:

"Tôi xin khẳng định trận ngập lụt sáng 20/7 không phải là do trạm bơm. Ở Nhật hoặc một số nước tiên tiến, môi trường sạch, không có rác cho nên nước bao nhiêu cũng chảy hết. Nhưng ở môi trường của chúng ta rác rất nhiều cho nên đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên việc lưu lượng nước đưa vào bể bơm không đầy đủ".

Thế đấy, nếu ở Nhật thì hầm đường bộ kia sẽ không có chuyện ngập đâu, chỉ có ở VN ta thôi... (!)

Đáng suy ngẫm hơn khi ông Ngô Quý Tuấn nói về một sự thật rõ mười mươi là "không riêng hầm Kim Liên mà hầu hết tuyến phố trên địa bàn thành phố đều có hiện tượng ngập"!

Vậy là khi "phố phường thành dòng sông uốn quanh" thì trách gì hầm đường bộ không ngập, tránh làm sao được cơ chứ?! Nghe mà buồn... Loay hoay đổ lỗi cho ai bây giờ?

Có cách gì không, ngoài cách đổ hàng tỉ đôla để nâng cấp, cải tạo hệ thống thoát nước, vậy mà việc cứ mưa là ngập vẫn trở thành "chuyện thường ngày ở huyện"? Phải chăng đây chính là hậu quả của một quá trình đô thị hóa nhiều năm đã diễn ra một cách tự phát và thiếu đầu tư đồng bộ cho cơ sở hạ tầng đô thị, phải chăng bây giờ là lúc đô thị phải "trả giá" sau một thời gian dài đi vay mượn, sống lẹm vào tự nhiên.

Nói như TS Hồ Long Phi (ĐH Quốc gia TPHCM) trên Tuổi Trẻ (21/7): Việc cần làm lúc này là theo xu thế đang được ủng hộ rộng rãi trên khắp thế giới là phải kết hợp một cách hợp lý giữa bảo vệ (protection) với thích nghi (adaptation) một cách chủ động. Đó chính là chiến lược kiểm soát ngập lụt đô thị khôn ngoan, bền vững và kinh tế nhất trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay.

Dẫu gì thì cũng phải tin tưởng vào một viễn cảnh tươi sáng hơn, kể cả ngày qua ngày vẫn phải lội nước bì bõm đi làm. Và bắt chước cách nói của ông Ngô Quý Tuấn ở trên - "Khi hoàn thành, hầm Kim Liên chịu được mọi trận mưa" - thì có thể nói rằng "khi Hà Nội, TP HCM giàu có, sung túc hơn, mọi vấn đề về thoát nước, trị thủy được giải quyết, hoàn thiện hết cả, thì mọi trận mưa khi đó mới trở thành... chuyện nhỏ!"

Danh Anh

Tuesday, July 21, 2009

Nguyên chánh thanh tra Bộ Công an hầu tòa trên băng ca

Sáng 20/7, bị can Trần Văn Thanh (thiếu tướng, nguyên giám đốc Công an Đà Nẵng, chánh thanh tra Bộ Công an) được đưa tới phiên tòa trong tình trạng bất động trên băng ca, đang truyền dịch, thở ôxy...
> Khởi tố thiếu tướng, nguyên chánh thanh tra Bộ Công an

Phiên tòa xét xử ông Thanh cùng các bị can Đinh Công Sắt (43 tuổi, nguyên thiếu tá Công an Đà Nẵng) ông Dương Tiến (nguyên trung tá, trưởng văn phòng đại diện báo Công an TP HCM tại Hà Nội) và Nguyễn Phi Duy Linh (40 tuổi) đã phải hoãn với lý do ông Thanh đau nặng, không thể hầu tòa.

Ông Trần Văn Thanh đến tòa trên băng ca. Ảnh: Trà Bang.

Phiên tòa mở tại Nhà hát Trưng Vương, Đà Nẵng ken kín người dân tới theo dõi. Đúng 8h, xe cấp cứu của Bệnh viện 19.9 (Bộ Công an) có mặt trước tiền sảnh nhà hát. Tuy nhiên, ông Thanh vẫn còn bất động trên băng ca, tay đang chuyền dịch, mũi thở ôxy...

10 ngày trước, Giám đốc Bệnh viện 19.8 tại Hà Nội đã xác nhận, nguyên chánh thanh tra Bộ Công an bị tai biến mạch máu não; chảy máu vùng thái dương phải... Tuy nhiên, ngày 15/7, TAND Đà Nẵng không chấp nhận đơn xin hoãn phiên tòa của bị can Thanh.

Ngày 19/7, ông Thanh được chuyển viện vào Bệnh viện 19.9 của Bộ Công an tại Đà Nẵng. Tại đây, các bác sĩ cũng kết luận thực trạng sức khỏe của ông Thanh tương tự như chuẩn đoán của Bệnh viện 19.8.

Tuy nhiên, cả 2 kết luận trên đều không được TAND Đà Nẵng chấp nhận. Sáng nay, trước tình trạng sức khỏe của ông Thanh, một hội đồng giám định y khoa do nhóm cán bộ, bác sĩ bệnh viện Đà Nẵng, Trung tâm cấp cứu 115, đại diện VKSND và TAND Đà Nẵng đã thành lập tại tòa để khám và giám định sức khỏe cho bị can này ngay trên xe cấp cứu.

Kết quả giám định tại chỗ sáng nay cũng cho thấy ông Thanh bị yếu nửa người trái; có ổ máu ở thái dương phải (xuất huyết não); nhịp tim 120 lần mỗi phút; huyết áp 200/100mmHg... đề nghị đưa về viện điều trị tiếp. 9h30, HĐXX hội ý, quyết định hoãn phiên xét xử, chờ thời điểm thích hợp.

Các bị cáo Dương Tiến, Đinh Công Sắt và Duy Linh tại phiên tòa sáng nay.

Ông Thanh và các bị can Đinh Công Sắt, Dương Tiến và Nguyễn Phi Duy Linh bị VKSND Đà Nẵng truy tố về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Cơ quan chức năng cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến việc Đinh Công Sắt khiếu nại, tố cáo sai sự thật cũng như tán phát các tài liệu, công văn ngay trước ngày bầu cử Quốc hội khóa 12 là xuất phát từ sự xúi giục, hướng dẫn, hứa hẹn, kích động của ông Thanh.

Trước khi chuyển ra Hà Nội làm Chánh thanh tra Bộ Công an, ông Thanh từng có nhiều năm giữ chức giám đốc công an Đà Nẵng.

Ngày 20/2, ông Trần Văn Thanh bị Cơ quan An ninh điều tra, Công an Đà Nẵng khởi tố về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Quyết định khởi tố được VKNSD thành phố phê chuẩn ngay trong ngày.

Trước đó 2 tháng, thiếu tướng Thanh bị thôi chức vụ Chánh thanh tra Bộ Công an.

Ông Thanh bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo đề nghị của TAND Đà Nẵng. Tháng 9/2008, tại phiên xử bị cáo Dương Tiến, Đinh Công Sắt và Nguyễn Phi Duy Linh, tòa án cho rằng vụ án còn đồng phạm chưa bị xử lý là ông Thanh.

Trà Bang

Friday, July 17, 2009

Tỵ nạn giáo dục

Đứa trẻ mới 5 tuổi, đi mẫu giáo về, tối đã phải đi học thêm. Học để làm gì? Có trời mới biết nhưng mà cha mẹ em này nhìn vào cha mẹ em khác mà âm thầm đua nhau.

Học để khi vào lớp Một, con mình hiển nhiên nổi trội hơn con cái những người không có điều kiện học thêm. Và chuyện học thêm ở đâu mới thật nan giải. Nhưng đã tìm thì phải ra, bởi ở đời, khi người ta đã muốn thì người ta sẽ có cách. Các cô giáo dạy lớp Một có tiếng nhất định sẽ đắt hàng.

Ở Hà Nội mùa học trước thềm lớp Một đúng vào những ngày nóng bức nhất. Không ít cô lớp Một mua được đất riêng nhưng dù nhà lầu đi nữa thì hàng trăm em bé cũng phải chịu cảnh “xếp cá mòi” vào những giờ thông tầm giữa hai buổi học. Tuổi thơ của trẻ con Việt Nam nói chung bị thun lại một cách dị thường là vì ngay từ khi lớp Một, các em đã phải hy sinh cho thành tích của người lớn.

Bắt đầu một cuộc chạy trường mất ăn mất ngủ. Chém cha những gã nào đã nghĩ ra trường điểm trường chuyên, không ít phụ huynh đã nguyền rủa như vậy nhưng họ không trốn được cảnh chạy trường.

Ở Hà Nội, nhiều người giàu và cũng nhiều người quan niệm sống chết cho việc học của con nên họ đã phải chuẩn bị hàng xấp đô la để con mình được vào lớp Một sáng chói. Và cũng từ đó cả nhà cùng thức khuya dậy sớm với con em như thể đi cày. Phải trừ hao thời gian cho nạn tắc đường, phải ăn sáng hộc tốc, phải xếp hàng vào lớp sớm để còn rèn luyện thân thể. Và học, học cả hai buổi mà về nhà vẫn còn hàng đống bài phải học cho xong!

Một bài tập ở nhà trong học kỳ I cho học sinh lớp Một có nội dung sau: “Hãy viết 10 điều nên và 10 điều không nên về việc giữ gìn vệ sinh lớp học”. Một đứa trẻ 6 tuổi phải nghĩ ra 20 điều nên và không nên cho chuyện giữ gìn một phòng học chỉ có mấy bức tường, mấy cửa sổ, mấy dãy bàn ghế và một tấm bảng ư? Cả nhà xúm vào cùng làm bài với em đến khuya mà vẫn không đủ 10 điều cho mỗi cột.

Nên và không nên thì khác gì nhau, đã nên rồi thì đừng bắt không nên nữa mới đúng là giáo dục chứ! (Tương tự kiểu giáo khoa thư giáo điều như vậy còn có đề ngoại khóa cho học sinh lớp Bốn: “Hãy viết cảm nhận của em về trận Điện Biên Phủ trên không?”. Một học sinh lớp 12 còn không kham nổi loại đề như thế, nữa là).

Chuyện trồng người ở nước ta viết bao nhiêu cũng không hết sự ngô nghê, lạc hậu buồn cười, nhưng nói thì dễ thành “Biết rồi khổ lắm nói mãi!”. Nhưng đây là chuyện hệ trọng còn hơn cơm áo, bởi vì gia đình nào cũng có người liên quan đến việc học. Hơn nữa, người Việt Nam ta còn có câu “nhất con nhì của” và tinh thần hiếu học của người Việt thì đã được cả thế giới ghi nhận chứ không phải dân mình tự xưng.

Chừng như các nhà vĩ mô, các vị chức sắc và cả các thầy các cô cũng biết rõ điều đó nên bộ máy ngành giáo dục đã tận dụng tối đa sự xả thân của phụ huynh cho việc học của con em họ. Ở vị thế bị trấn lột, bị tung hứng, các bậc phụ huynh biết rõ mình đang là miếng mồi nhưng không phải ai cũng có điều kiện để thoát ra.

Xin đừng tưởng những người có ăn có để ở thành phố đang thoát ra bằng cách cho con vào các trường quốc tế tại chỗ hay đi du học. Quả là với các loại trường quốc tế tại chỗ, học sinh đã được học ngoại ngữ tốt hơn, được thụ hưởng điều kiện học hành ưu thế hơn và được giảm tải với chương trình của Bộ Giáo dục. Nhưng để đổi lấy những điều đó, cha mẹ của các em đã phải dập mặt kiếm tiền, mà để có đồng tiền sạch ở xứ ta, nào dễ.

Với những em phải du học sớm, cho dù các em được hít thở mọi thứ nhưng cái giá cho chính các em cũng không phải nhỏ. Đó là sự cắt rời cha mẹ ở tuổi vị thành niên, sự đứt gãy văn hóa truyền thống và tiếng Việt, những điều làm nên một người Việt Nam thực sự hương vị ở tương lai.

Lợi bất cấp hại nhưng càng ngày càng có nhiều người đã bấm bụng cho con mình có được môi trường học hành không vẩn đục. Ngẫm kỹ, dù vào trường quốc tế tại chỗ hay bằng mọi cách cho con cái đi ra nước ngoài, với người Việt của thời điểm này, nhất định đó không phải từ ý thức vọng ngoại mà thuần túy là một cách tỵ nạn mà thôi.

Chắc không nhiều những nơi trên trái đất này người ta tiễn người nhà của mình đi học bằng nỗi ngậm ngùi: tôi không vọng ngoại, tôi cũng không sính ngoại, tôi không chơi tiền, tôi chỉ muốn con mình được một chữ học đúng nghĩa.

Dạ Ngân
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn

17/07/2009

Trong quá trình phát triển ở các đô thị của chúng ta, luôn có những chuyện, những tình huống rất bi hài mà người chứng kiến một lần có thể nhớ mãi. Chẳng hạn câu chuyện “anh hùng vô danh cắt dây cáp” mà Phát ngôn & Hành động ấn tượng tuần này sẽ kể lại cho quý độc giả.


Phó Chủ tịch HN: “Không rõ bao nhiêu khu đô thị có trường”

Tại phiên chất vấn của HĐND về thực trạng thiếu trường học trên địa bàn thành phố, một loạt đại biểu đã nêu câu hỏi đối với Phó Chủ tịch Hà Nội, bà Ngô Thị Thanh Hằng. Tình hình là, trong 100 khu đô thị mới trên địa bàn, nhiều nơi bị thiếu trường, do việc xây dựng trường chưa có trong quy hoạch khu đô thị.

Phó Chủ tịch Thành phố Hà Nội, bà Ngô Thị Thanh Hằng, trả lời chất vấn tại phiên họp HĐND. (Ảnh: Nguyễn Hưng)

Trường học sẽ ngày càng thiếu hơn trong những năm tới, cùng với quá trình phá bỏ, cải tạo chung cư cũ, cấp thấp thành chung cư mới.

Các đại biểu ồ ạt chất vấn, làm Phó Chủ tịch mất gần hai tiếng đồng hồ giải trình. Bà cho biết thành phố đã yêu cầu chủ đầu tư các khu đô thị xây đồng bộ trường học.

Tuy vậy, bà cũng thừa nhận: “Đến nay tôi không nắm được có bao nhiêu khu đô thị đã có trường”. Thế nên các đơn vị liên quan vẫn đã và đang rà soát. (VnExpress, 16/7)

Có điều, theo ông Lê Quang Nhuệ, Phó Chủ tịch HĐND Hà Nội, thì từ năm 2007 lãnh đạo thành phố đã chỉ đạo rà soát trường học. Ngồi tại bàn điều hành phiên họp, nhưng ông Nhuệ cũng phải bức xúc đứng dậy chất vấn:

Cách đây 2 năm, tức năm 2007, HĐND thực hiện giám sát về hạ tầng các khu đô thị mới, UBND đã nói sẽ rà soát, bây giờ lại vẫn nói… sẽ rà soát. Rà soát có khó không khi chúng ta có bộ máy từ quận đến phường, có hệ thống mạng thông tin? Liệu chúng ta có phải thuê lực lượng chuyên nghiệp rà soát không?”. (Dân Trí, 16/7)

Liên quan đến chuyện trường sở còn thiếu, bà Ngô Thị Thanh Hằng giải thích, việc thiếu trường tại 6 phường Trung Liệt, Láng Thượng, Phương Mai, Ngã Tư Sở, Lê Đại Hành, Thanh Nhàn là do quỹ đất hạn hẹp, quy hoạch mạng lưới trường không đáp ứng thực tế. Tóm lại là “do lịch sử để lại”.

Thật đến khổ cho lịch sử!

“Xu thế mà thế giới đang tránh là không đi vào “bệnh đầu to””

Căn bệnh đầu to mà ông Trần Trọng Hanh - đại biểu HĐND, nguyên Hiệu trưởng ĐH Kiến trúc Hà Nội – nêu ra ở đây không phải là bệnh lý trong y học, mà là bệnh phát triển dồn về đô thị. Nhận xét về 700 đồ án quy hoạch thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn 2050, với chỉ tiêu 40% đất dành cho xây dựng và cải tạo, ông Hanh cho rằng Hà Nội sẽ biến thành một “siêu thành phố với 34 triệu dân”.

ĐB HĐND Trần Trọng Hanh. (Ảnh: Tiến Dũng)

Trong khi đó, theo ông Hanh, “trong giai đoạn hiện nay, xu thế mà cả thế giới đang tránh là không đi vào “bệnh đầu to”. Ví dụ, thủ đô Bangkok đã tạo ra sự chênh lệch giữa đô thị và nông thôn, giữa giàu và nghèo...”. (VnExpress, 15/7)

Có lẽ cũng nên xem điều ông Trần Trọng Hanh nói như một lời cảnh báo cho các nhà quy hoạch và làm chính sách. Phát triển hợp lý phải là một quá trình đô thị hóa đồng đều cả nước chứ không thể tập trung vào hai thành phố đã quá tải. Mỗi tỉnh đều đã có thành phố lớn trực thuộc tỉnh, đô thị hóa là quá trình người dân di cư từ vùng ngoại ô, nông thôn, ra thành phố trực thuộc tỉnh mình, chứ không phải đổ dồn hết vào Hà Nội và TP HCM.

Để rồi không còn là đô thị hóa, mà là nông thôn hóa Hà Nội và TP HCM. Để rồi đến khi cơ sở hạ tầng của hai thành phố này quá tải, đất đai khan hiếm, thiếu bệnh viện, trường học, sẽ lại có người đổ tại “lịch sử”.

Riêng trong trường hợp Việt Nam, nếu nhiễm căn bệnh đầu to trong quy hoạch đô thị và phát triển, Hà Nội và TP HCM sẽ phình đại. Tức là nước ta tiến tới ngưỡng bệnh “đầu to chân to”.

Ra đề sai, lỗi là của người biên soạn sách

Mới đây, trên trang web vanhocmang.net, tác giả Nguyễn Đình Nam đưa ra dẫn chứng trên Google và tài liệu của sử gia Mỹ cho thấy trích dẫn trong đề Văn ĐH khối C không phải của tổng thống Lincoln.

Cục phó Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục Trần Văn Nghĩa cho biết, đề Văn khối C đã ra theo đúng nội dung chương trình phổ thông. Câu trích dẫn Tổng thống Lincoln nằm trong SGK Văn lớp 10.

Việc xác định đó có đúng là câu nói của tổng thống Mỹ hay không là trách nhiệm của những người biên soạn SGK Văn” - ông Nghĩa nói. (VnExpress, 13/7)

Bộ SGK Văn 10 do GS Phan Trọng Luận làm chủ biên. (Nguồn ảnh: songhuong.com.vn)

Còn GS Phan Trọng Luận, Tổng chủ biên của SGK Văn lớp 10 - cuốn sách đăng tải bức thư được trích trong đề Văn – thì cho biết: Khi soạn sách, Ban soạn thảo đã dựa vào một cuốn sách của NXB Trẻ (cuốn “Những mẩu chuyện về nhà giáo” xuất bản năm 2004) để làm nguồn.

Quả thật, nếu nguồn đã sai thì trích dẫn sai theo là điều không tránh khỏi. Thế nhưng, việc trích dẫn, nhất là để đưa vào những văn bản, ấn phẩm có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn như đề thi ĐH cả nước, SGK dùng cho cả nước, thì không thể làm theo kiểu “tôi chỉ biết bê nguyên xi, đúng hay sai là do nguồn ngay trước tôi” được.

Nhìn nhận một cách bi quan thì câu chuyện này cho thấy một hiện tượng đang trở thành phổ biến trong xã hội, ngay cả ở những giới được coi là “elite” như trí thức, quan chức. Đó là cái sự thấy lỗi đổ vấy cho nhau, rất lòng vòng, thiếu tinh thần trách nhiệm “dám làm dám chịu”.

Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục quy lỗi cho bên biên soạn SGK. Bên biên soạn đá vội quả bóng trách nhiệm sang NXB Trẻ. Rồi đến lượt mình, NXB Trẻ sẽ đổ lỗi cho ai?

Nhà có con gái đẹp thì phải có chính sách bảo vệ!

Ngày 9/7, 6 nhà xuất bản ngoại văn ở Việt Nam loạt đưa ra 393 tựa sách của mình bị làm lậu và đồng thanh kêu cứu.

Đây mới là lần đầu tiên các nhà xuất bản nước ngoài kêu cứu lên chính quyền Việt Nam, chứ giới làm sách trong nước thì đã “oai oái” từ lâu trước nạn sách lậu. Chưa cần số liệu thống kê, ta chỉ vào mạng tìm từ khóa “sách lậu” là đã ra hàng chục bài báo viết về vấn nạn này, với rất nhiều đơn vị kêu la: NXB Trẻ, NXB Văn hóa - Thông tin, Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam, v.v…

Cục trưởng Vũ Mạnh Chu.
(Nguồn ảnh: An Ninh Thủ Đô)

Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả Vũ Mạnh Chu lại bảo: “Các đơn vị bị vi phạm tác quyền mới chỉ lên tiếng chứ chưa quyết tâm bảo vệ tác quyền của mình. Nếu không tỏ thái độ quyết liệt thì đừng kêu tôi bị vi phạm tác quyền nữa. Đã lên tiếng thì phải đưa ra giải pháp. Nhà có con gái đẹp thì phải có chính sách bảo vệ”. (VietNamNet, 11/7)

Câu nói của ông Chu làm giới xuất bản “nóng gáy”. Thứ nhất là ông Chu buông lời chê trách hơi… nặng và sai. Các đơn vị làm sách đã không chỉ “xoay xở” bằng con đường chính thống là gửi đơn khiếu nại, kêu gọi chính quyền, kêu gọi báo chí vào cuộc mà còn đi theo cả con đường phi chính thống, thậm chí đánh tiếng “xin” từng đầu nậu “lạy bác tha cho sách nhà em”.

Thứ hai là… nếu nhà ta (chẳng may) có con gái đẹp, phải có chính sách bảo vệ kiểu gì đây nếu luật pháp không được thực thi, chính quyền, công an, cảnh sát đều bảo ta “chưa quyết tâm bảo vệ”, “đã lên tiếng thì phải đưa ra giải pháp”?

Trong tình huống như thế, cách tốt nhất là phải may cho con gái một bộ áo giáp 5 lần khóa!

Giá xăng dầu tuy tăng nhưng vẫn thấp hơn khu vực

Ông Nguyễn Tiến Thỏa - Cục trưởng Cục quản lý giá, Bộ Tài chính – đang “treo” một tin vui trên đầu người tiêu dùng: “Nếu đến 20/7 tới diễn biến giá xăng dầu thế giới vẫn giảm, mà các doanh nghiệp không có ý kiến về việc giảm giá thì dứt khoát liên bộ sẽ nhắc nhở”. (Tiền Phong, 16/7)

Cục trưởng Nguyễn Tiến Thỏa. (Nguồn ảnh: tienphongonline.com)

Đây có lẽ là phát ngôn khiến chúng ta mừng rỡ nhất trong tuần, dù chuyện giảm giá xăng dầu chưa đến.

Trước đó, Thứ trưởng Tài chính Trần Văn Hiếu cho biết, với mức giá xăng dầu thế giới bình quân 14 ngày gần đây cộng với các khoản thuế, phí phải nộp và khoản tạm ứng từ ngân sách nhà nước 1.000 đồng đối với mặt hàng xăng, thì doanh nghiệp vẫn bị lỗ. Nói cách khác, xăng dầu vẫn bị lỗ chưa hạ giá được, người dân chờ đã.

Ông Hiếu cũng nói thêm là tuy giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng lên nhưng hiện nay còn thấp hơn giá của một số nước trong khu vực.

Để ý theo dõi những lần tăng giá xăng dầu, chúng ta thường thấy có sự so sánh với giá mặt hàng này trong khu vực để thấy dù tăng, giá của ta vẫn rẻ hơn. Đây là một phép so sánh rất được ưa thích, chắc cũng chỉ nhằm mục đích làm người tiêu dùng chúng ta mừng rỡ, lạc quan mà thôi.

“Có một chiếc chiếu rách, đem ra Mỹ Đình cho thuê, tôi cũng có tiền”

Câu nói này là của TS. Hoàng Anh Tuấn - Chủ tịch Chi hội Marketing Hà Nội, Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại và đầu tư Thủ đô. Tốt nghiệp cử nhân vật lý ĐH Sư phạm Hà Nội, thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Australia, tiến sĩ quản trị kinh doanh tại Mỹ, anh có đủ tài năng, kiến thức, ý chí và lòng tự tin để “lập ngôn” như vậy.

TS. Hoàng Anh Tuấn, nguyên GĐ Marketing của Microsoft Việt Nam. (Ảnh: Việt Hưng)

Hãy nghe anh nói với các bạn trẻ: “Nếu tôi có một chiếc chiếu rách, đem ra Mỹ Đình cho thuê, tôi cũng có tiền. Nếu tôi có một cái bơm, đi bơm xe và tôi cũng có tiền. Thú thật, tôi nhìn đâu cũng thấy tiền và các bạn có đến n cách kiếm tiền mà chẳng bao giờ phải nói nhà em nghèo, nhà em không có tiền, em phải đi học không có thời gian…”. (Dân Trí, 16/7)

Đây không phải câu nói của một người giàu có nhờ may mắn, thân thế và sau đó rung đùi “dạy thiên hạ”. Bởi vì Hoàng Anh Tuấn đã vươn lên từ nỗ lực của bản thân, trong một gia cảnh không lấy gì làm khá giả. Như lời anh kể: “Tôi từng làm việc tới chảy máu mũi ở trong lò bánh mỳ của Úc, từng lang thang 11-12h đêm trên đường phố Sydney, đơn độc và đói khát”.

Điều tốt đẹp anh đang muốn làm cho thế hệ trẻ, là tư vấn miễn phí cho họ, thậm chí bày cách cho họ kiếm tiền và làm giàu, chỉ với điều kiện họ mạnh dạn, dám làm. Bởi vì “trẻ là phải hành động”.

Cắt dây cáp, cứu giao thông

Đoạn đường ngã tư Tôn Đức Thắng - Nguyễn Thái Học (Hà Nội) giờ cao điểm chiều 16/7 đã bị ùn tắc nghiêm trọng bởi một sợi dây cáp võng xuống. Các xe buýt (vốn đã cồng kềnh) muốn đi qua đều phải dừng lại, để phụ lái trèo lên nóc, nâng dây lên cho xe đi. Xe trước lọt qua an toàn, dây lại võng xuống, xe sau lại tiếp tục phải nâng dây lên, cứ thế…

Các phụ lái phải "đánh đu" trên nóc xe, dưới hàng dây "giăng mắc muôn nơi". (Nguồn ảnh: Dân Trí)

Báo chí cho hay, đại úy Hoàng Quang Chiến (Đội cảnh sát giao thông số 2), đang làm nhiệm vụ tại khu vực này, đã gọi điện về đơn vị, nhờ thông báo cho cơ quan liên quan đến giải quyết. Tuy nhiên, đến tận 18h40, vẫn không thấy ai đến xử lý.

Không thể tiếp tục chờ đợi, một người dân bèn chủ động dùng kìm cắt đứt sợi dây cáp trên. Giao thông khi ấy mới trở lại bình thường. (Dân Trí, 16/7)

Xin bầu hành động của người vô danh này là hành động ấn tượng của tuần, bởi anh đã giải quyết bay một sự cố mà các cơ quan chức năng chưa kịp xử lý, mặc dù trời đã tối và người dân đang đói bụng muốn về nhà.

Hành động tuy có phần bột phát, hậu quả mang tính phá hoại là làm đứt một dây cáp, nhưng đó là giải pháp linh hoạt trong tình huống cấp bách, lại gỡ rối được cho cả một nút giao thông

Đoan Trang

Tàu lạ

Chẳng bao giờ đồng bào tôi lại gặp khó khăn như hiện giờ khi "tàu lạ" liên tục bắt bớ, tấn công trong khi họ hoàn toàn đơn độc. Và điều đáng buồn khi nó, "tàu lạ", đã và đang đưa tôi chứng kiến những thực tại bạc nhược, đồng thời mang tôi rời xa những mong ước bấy lâu nay. Có lẽ trước đây tôi quá lạc quan hay non nớt khi tin rằng lúc tôi có một gia đình yên ổn thì quê hương tôi sẽ khác. Ngày ấy, chúng tôi có thể tự do chu du khắp nơi, và chính ngày ấy, quê hương chúng tôi sẽ là nơi thanh bình nhất, nơi không còn những âu lo cơm áo gạo tiền.

Nhưng lúc này đây, tôi quay quắt nhận ra rằng trong sâu thẳm, tôi đã không còn niềm tin là mình có đủ thời gian sống để chứng kiến điều đó. Quá nhiều thứ tác động để bào mòn những ý chí vươn lên, thay đổi, và rồi chúng tôi ngày ngày dần xa mặt trời để không còn tin rằng hãy hướng về nó, bóng tối sẽ ngã phía sau mình. Nhiều lúc tôi thèm lắm một kỳ tích, để mọi thứ đột nhiên thay đổi và khắp nơi tôi được nghe tiếng cười, được thấy quê hương yên ả giang rộng vòng tay ôm hàng triệu người tha hương quay trở về như một người mẹ, đầy ắp lòng bao dung và tình yêu thương.

Và tôi lại lờ mờ nhận ra rằng, có lẽ ước mơ của tôi và của hàng triệu đồng bào khác, cần nhiều thời gian hơn chúng tôi nghĩ hay không biết bao giờ để có thể thành sự thật. Và cần hơn nữa...

Nếu tôi không cháy lên
Nếu anh không cháy lên
Thì làm sao
Bóng tối
Có thể trở thành
Ánh sáng?

Nazim Hikmet
(GS Cao Xuân Hạo dịch)

Wednesday, July 15, 2009

Address at Afternoon Exercises

As delivered

Distinguished guests, graduates and families, alumni and alumnae, colleagues and friends – and Secretary Chu, welcome.

It is customary on this occasion for the president to talk about the year that has passed, to report on the University’s achievements and directions to gathered alumni/ae and friends. This June, I have quite a year on which to reflect — a year of unanticipated and dramatic change.

Perhaps I should have realized that something unusual was afoot when the freshmen were greeted their first night at Harvard in September with a blackout in the Yard. Within weeks, financial markets were in turmoil, venerable firms began to fall, and we watched trillions of dollars of wealth disappear around the globe. Nine months later, we inhabit a new world — one of changing structures, assumptions, and values as well as changed resources. Few expect a return anytime soon to the world we had come to take for granted just a year ago.

We graduate a class of seniors from the College today who, according to The New York Times, face the most difficult job market in decades. We award professional degrees to students entering fields that are searching for new moorings as they face demands for changed regulation, compensation, and public purpose. And we see the roles and resources of universities changing as well in this environment of global crisis. It is clear we have never been more needed. We have watched as Harvard became a kind of employment bureau for the new administration in Washington. As the White House seeks solutions for the economic downturn, for climate change, health care delivery, regulatory reform, and K-12 education, it has called so many of our faculty to service that Senator Susan Collins of Maine was prompted to ask at the confirmation hearing of one of our colleagues whether any Law School faculty members were left in Cambridge. And not just our faculty but many of our alumni have been drafted as well, occupying numerous cabinet and subcabinet posts — and of course the Oval Office itself.

Knowledge — and people with knowledge — are critical to addressing the challenges that face us. This is what we do as a university; this is who we are. We produce knowledge, and we disseminate it — as we teach our students, as we share the fruits of our research. The new president has declared that the United States must support “colleges and universities to meet the demands of a new age,” and must, he has said, “restore science to its rightful place,” and must lead the world in research and discovery. His Secretary of Energy, our speaker Steven Chu, has reinforced this message, predicating our prosperity as a nation in the years to come upon, he has said, our “ability to nurture our intellectual capital.”

But even as we reaffirm the importance of universities and their work, we have begun to see that we need to do this work differently. At Harvard, as at our peer institutions, we confront changed circumstances that require changed strategies. As a university community we have spent a great deal of time this year focused on these difficult new realities — beginning to decide what we can and must live without. For all this work, we are still at the outset of a process that will define Harvard’s future and, as our peers undertake similar exercises, the future of higher education. But as we come to the end of this year of change and adjustment, we must focus not on what we have lost, but on what we have. It is time to think of ourselves not so much as objects of a global economic crisis beyond our control, but as heirs of a nearly 400-year-old institution that defines academic excellence for much of the world. In the halcyon days of my installation a year and a half ago, I spoke about that accountability — what we at universities owe one another as teachers, students, and scholars and what we as universities owe the world. These responsibilities, this accountability, have now been magnified by the times that confront us. We cannot simply serve as stewards or curators of Harvard’s storied traditions and proud distinction. We must define and shape the purposes of universities for a changed future.

The distinguished medieval historian Caroline Bynum once observed that “change is what forces us to ask who we are.” What is ephemeral? What is essential? What is just habit? Our accountability — to Harvard, to one another, and to higher education — means that we must ask these questions and we must seize the moment of change and opportunity before us. Change can happen to us — or through us. We must make sure we become its architects, not its victims. We must ask ourselves what it is we want to be on the other side of recession and crisis — when the world has reached what we might call a new normal. How should we envision ourselves and our purposes?

These are questions that demand planning and consultation across the University and these processes are under way. They are questions that require decisions and trade-offs from every part of the institution. Each specific choice will have its own impact and significance. But I want to draw our attention today to the meaning of the accumulation of these decisions — a sum far more consequential than any of its parts. These choices, taken as a whole, will constitute our statement of what we at Harvard believe the research university of the 21st century should and must be.

I want to focus for a few minutes on three essential characteristics of universities. Only three. These brief reflections cannot possibly touch on all that we must do and be in the future. But I have chosen these three because they represent especially important and long-lived understandings of our identity — of responsibilities and opportunities that must continue to guide us. But I also want to note the very real challenges we face — as universities and as a nation — in sustaining these commitments in a world that the past year has redefined.

First: American universities have long been regarded as engines of opportunity and excellence. Education has been central to the American dream since the time of the nation’s founding. Yet as we all know, rising college costs have increasingly strained the resources of average American families. Keeping higher education affordable is crucial to the nation and crucial to Harvard. Opportunity is about fairness; it is also about excellence. We must be a magnet for talent.

We have acted decisively on these convictions. Over the past five years, we have created a transformative undergraduate financial aid program meant to ensure that every student of ability can aspire to attend Harvard College regardless of financial circumstances. And over the past decade, we have tripled levels of financial aid offered by our graduate and professional Schools as well. Our support for students of talent is an essential part of our identity, because we believe that the best ideas do not come from a particular social class or ethnicity or gender or place of origin. Providing broad access is a fundamental dimension of our responsibility and our legitimacy — in our own eyes, given our strongly meritocratic values, and in the eyes of a broader society that provides us with the support of tax exemptions and research dollars. Even as rising need among students and diminishing resources from our endowment have made these commitments increasingly costly, we must affirm these principles of access and opportunity as defining aspects of who we are.

Just as we are committed to bringing the brightest minds to fill our classrooms, so we must continue to invest in exceptional faculty to lead them and to pursue the work of discovery that defines Harvard as a preeminent research university. Even in the face of constrained resources we must sustain and build this faculty for the future. Talented students and talented faculty require one another. Let us make sure that we succeed in continuing to attract and nurture both.

The second aspect of university identity I want to address is the role of universities as the primary locus for both basic and applied research in the United States. In the years after World War II, federal policy established structures of scientific and social scientific inquiry based on a partnership between government and research universities. Research and development drew limited investment within private industry, and in recent years even these modest levels have declined in a trend best symbolized by the contraction of the storied Bell Labs, which in an earlier era enabled basic research like the Nobel prize-winning discoveries of our honorand Steven Chu.

But even as private industry’s commitment to research declined, so too did government support for science. Over the last three decades, federal funding dedicated to research and development has actually decreased, as a proportion of our GDP, by more than 15 percent. The federal stimulus offers a reprieve from this trend — with an infusion of 21 billion dollars to be spent over the next two years, and the administration has set a goal of devoting more than 3 percent of GDP to research and development even as the stimulus comes to an end. But steep federal deficits will combine with diminished university resources to produce real challenges in meeting this very ambitious intention. Even before the economic downturn, the model for supporting science needed overhaul. As a report from the National Academies warned in 2007, we as a nation were already facing a “gathering storm” in which too few students were choosing science; too few were finding the support necessary to launch and sustain their careers; too many were choosing safe and predictable research in order to secure funding; too few were able to follow their curiosity in pursuit of truly transformative ideas. The financial crisis has only laid bare problems already evident about the future of scientific research in the United States and about the support for science at our research universities.

The short-term lift of stimulus funds must not divert us from seeking long-term solutions. Federal funding levels are a critical part of the answer but they are only a part. For example, as we here at Harvard contemplate how to support science in these changed economic circumstances, we find ourselves thinking about new kinds of partnerships with foundations and industry, as well as with neighboring educational institutions. Already, we see collaborations across Harvard Schools, with affiliated hospitals, with the Broad Institute, with MIT, and with other universities as essential to our current and evolving work in stem cells, neuroscience, genetics, and bioengineering. And as we consider how to make our Allston dreams affordable, partnerships beyond Harvard offer great promise. If we — as Harvard and as universities more generally — are going to sustain our pre-eminence in scientific discovery we must devise new ways both to conduct and to support research.

Third: universities serve as society’s critics and conscience. We are meant to be producers not just of knowledge but of doubt — of understanding rooted in skepticism and constant questioning, not in the unchallenged sway of accepted wisdom. More than perhaps any other institution in our society, universities are about the long view and about the critical perspectives that derive from not being owned exclusively by the present.

For nearly four centuries now, Harvard has looked beyond the immediately useful, relevant, and comfortable to cast current assumptions into the crucible of other places and other times. Universities are so often judged by their measurable utility — by their contributions to economic growth and competitiveness. We can make a powerful case with such arguments. Harvard is the second largest private employer in the Boston metropolitan area, and it directly and indirectly accounted for more than 5.3 billion dollars in economic activity for Massachusetts last year. But such contributions are only a part of what universities do and mean. We need universities for much less immediate and instrumental ends.

I worry that we as universities have not done all we could and should to ask the deep and unsettling questions necessary to the integrity of any society. As the world indulged in a bubble of false prosperity and materialism, should we — in our research, teaching and writing — have done more to expose the patterns of risk and denial inherent in widespread economic and financial choices? Should our values have posed a firmer counterweight and challenge to excess and irresponsibility, to short-term thinking with long-term consequences?

The privilege of academic freedom carries the obligation to speak the truth even when it is difficult or unpopular. So in the end, it comes back to veritas — the commitment to use knowledge and research to penetrate delusion, cant, prejudice, self-interest. That truth may come in the form of scientific insights freed from ideology and politics. It may come in the interpretive work of humanists who show us how to read and think critically and offer us the perspective of other places, other tongues, and other times. It may come through the uniquely revisionary force of the arts — which enable us to understand ourselves and the world through changed eyes and ears. It may come through placing questions of ethics and responsibility at the core of our professional School programs. In fact, in recent weeks a group of students at the Business School have created an MBA oath pledging graduates to “serve the greater good.” Asking how business schools and their graduates might have done more to avert the financial crisis, these students seek to encourage conscience and critical consciousness in both business education and business as a profession.

The enhancement of our role as critics and doubters must come as well through the education of our undergraduates, where we seek, in the words of the new General Education program, “to unsettle presumptions, to defamiliarize the familiar . . . to disorient young people and to help them to find ways to reorient themselves.” As we adapt to a rapidly changing world, we must build anew on Harvard’s long traditions of liberal arts education and of humanistic inquiry. These traditions can generate both the self-scrutiny and self-understanding that lead through doubt to wisdom.

Universities as engines of opportunity; universities as the principal sites of America’s scientific research; universities as truth tellers: these are three fundamental aspects of our understanding of ourselves. Yet each faces challenges in the new era that lies ahead of us — challenges of structures, of affordability, and of values. And we are challenged in turn to demonstrate our commitment to these principles, which have so long been at the heart of how we have defined ourselves. We must not take these principles for granted, and we must not lose sight of them as we make the many choices about what to keep and what to forego in the months ahead. But we must devise new ways of sustaining them for changed times. We are accountable to and for these traditions and the values they represent — the belief that the open and unfettered pursuit of truth will build a better world for us all. This is what inspires all that we do and all that we are — for now and in the years to come

- Drew Gilpin Faust

http://www.president.harvard.edu/speeches/faust/090604_commencement.php

Bản dịch:

Diễn từ của Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard trong Lễ Tốt nghiệp năm 2009

Ngày 4-6-2009


Drew Gilpin Faust

Thưa các vị khách quý, các bạn sinh viên vừa tốt nghiệp, quý phụ huynh, cựu sinh viên, các vị đồng nghiệp và bạn bè, và Bộ trưởng Chu, xin chào mừng quý vị đã đến đây tham dự buổi lễ này.

Đã trở thành truyền thống buổi nói chuyện của hiệu trưởng nhà trường trong lễ tốt nghiệp hàng năm để nói về một năm đã qua, báo cáo về những thành tựu nhà trường đã đạt được và những hướng đi sắp tới trong việc tập hợp các cựu sinh viên và những người bạn của nhà trường. Tháng 6 năm nay tôi có cả một năm đầy những bất ngờ và những đổi thay nhiều kịch tính để mà phản ánh.

Đáng lẽ tôi cần nhận thức rõ về những gì khác thường đã diễn ra trong đêm đầu tiên chào mừng các em sinh viên năm thứ nhất đặt chân vào Đại học Harvard tháng 9 năm qua, với sân trường được tắt đèn hoàn toàn. Lúc đó, trong nhiều tuần lễ, các thị trường tài chính rối loạn, các công ty uy tín bắt đầu sụp đổ, và chúng ta đã chứng kiến hàng ngàn tỷ đô la biến mất trên toàn cầu. Chín tháng sau, chúng ta sống trong một thế giới mới- một thế giới với những cơ chế, tiền đề và giá trị, cũng như các nguồn lực, đang thay đổi. Ít ai mong đợi sự quay lại nhanh chóng của thế giới mà chúng ta đã quen xem như tất yếu phải thế chỉ mới cách đây một năm mà thôi.

Hôm nay chúng ta làm lễ tốt nghiệp cho những sinh viên mà theo tờ The New York Times, là những người phải đương đầu với một thị trường lao động khó khăn nhất trong nhiều thập kỷ. Chúng ta cấp bằng cho sinh viên bước vào những ngành nghề đang phải tìm kiếm những “cánh đồng” mới khi đối mặt với những quy định, điều kiện lương bổng và những mục tiêu công đã thay đổi. Và chúng ta thấy vai trò và nguồn lực của các trường đại học cũng đang thay đổi trong môi trường khủng hoảng toàn cầu. Rõ ràng là chưa bao giờ chúng ta được xã hội cần đến như hiện nay. Chúng ta đã thấy Harvard trở thành gần như một cơ quan tuyển dụng cho chính phủ mới ở Washington. Khi Nhà Trắng tìm kiếm giải pháp cứu vãn nền kinh tế suy sụp, hay giải pháp cho tình trạng thay đổi khí hậu, thực hiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng, cải cách các quy định hay giáo dục phổ thông, họ đều kêu gọi đến sự phục vụ của đội ngũ cán bộ giảng viên của chúng ta, nhiều đến nỗi Thượng nghị sĩ Susan Collins ở Maine trong một buổi thu thập ý kiến về việc đề bạt nhân sự cấp cao, đã phải hỏi liệu có còn sót lại một giảng viên nào cho trường luật ở Cambridge hay không. Cũng không chỉ các giảng viên, mà rất nhiều cựu sinh viên của chúng ta đã được rút về làm việc ở những vị trí trong nội các và tất nhiên cả Phòng Bầu dục của Nhà Trắng.

Tri thức- và những con người có tri thức- là nhân tố cốt yếu để vượt qua những thử thách mà chúng ta đang phải đương đầu. Đó chính là điều mà chúng ta đang làm với tư cách là một trường đại học. Đó chính là điều cho thấy chúng ta là ai. Chúng ta tạo ra tri thức, và chúng ta gieo rắc nó khi giảng dạy sinh viên và chia sẻ kết quả nghiên cứu của mình. Tổng thống mới của chúng ta đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ cần phải “hỗ trợ các trường đại học nhằm đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới”, và phải “trả khoa học về đúng chỗ chính đáng cuả nó”, nghĩa là dẫn đầu thế giới trong việc nghiên cứu và khám phá. Bộ trưởng Bộ Năng lượng, diễn giả Steven Chu hôm nay, đã nhấn mạnh thêm thông điệp này, khẳng định rằng “sự thịnh vượng của quốc gia chúng ta trong những năm sắp đến tùy thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc nuôi dưỡng nguồn vốn trí thức”.

Nhưng ngay cả khi chúng ta tái xác nhận một lần nữa tầm quan trọng của các trường đại học và những việc họ làm, chúng ta đã bắt đầu thấy rằng cần phải làm công việc ấy một cách khác đi so với trước. Ở Trường Đại học Harvard, cũng như những trường bạn, chúng ta đang phải đương đầu với những bối cảnh đã thay đổi và đòi hỏi phải có những chiến lược được thay đổi cho phù hợp. Với tư cách một cộng đồng đại học chúng ta đã dành rất nhiều thời gian trong những năm qua để tập trung vào những thực tiễn mới đầy khó khăn ấy— bắt đầu quyết định xem cái gì chúng ta có thể và buộc phải sống mà không có nó. Về tất cả những việc ấy, chúng ta vẫn còn đang ở những bước đi ban đầu trong việc xác định tương lai của Harvard và bởi vì các trường khác cũng đang làm như thế, chúng ta đang xác định tương lai của giáo dục đại học. Nhưng đến cuối năm học với bao nhiêu thay đổi và điều chỉnh này, chúng ta phải tập trung không phải vào những gì chúng ta đã mất, mà là những gì chúng ta đang có. Đây là lúc nghĩ về chính bản thân chúng ta không hẳn chỉ như đối tượng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang vượt quá tầm kiểm soát, mà là người kế thừa một ngôi trường bốn trăm năm tuổi, một ngôi trường đã định nghĩa thế nào là sự ưu tú trong khoa học cho cả thế giới. Trong lễ nhậm chức hiệu trưởng cách đây một năm rưỡi, tôi đã nói về trách nhiệm ấy- những gì chúng ta còn nợ các giáo sư, các nhà khoa học và sinh viên, những gì chúng ta với tư cách một trường đại học còn nợ thế giới này. Trách nhiệm này giờ đây càng thêm nặng nề bởi thời đại mà chúng ta đang phải đối mặt. Chúng ta không thể đơn giản chỉ phục vụ như những người quản lý hay trông nom truyền thống và những đặc điểm đáng tự hào của Harvard. Chúng ta phải xây dựng và định hình những mục đích của trường đại học cho một tương lai đã đổi thay.

Sử gia lỗi lạc thời Trung cổ Caroline Bynum có lần nhận xét rằng “thay đổi là cái buộc chúng ta phải tự hỏi mình là ai”. Đâu là những thứ phù du sớm nở tối tàn, đâu là những gì bản chất cốt lõi? Cái gì chỉ là tập quán, thói quen? Trách nhiệm của chúng ta đối với Harvard, đối với nhau, đối với giáo dục đại học, nghĩa là chúng ta phải đặt ra những câu hỏi ấy và phải biết nắm lấy thời khắc đổi thay và những cơ hội trước mặt. Đổi thay có thể xảy ra với chúng ta, hoặc thông qua chúng ta. Chúng ta cần phải chắc chắn rằng mình là người thiết kế chứ không phải là nạn nhân của sự đổi thay. Chúng ta phải tự hỏi chính mình, rằng ta muốn trở thành cái gì trong cuộc suy thoái và khủng hoảng này, khi thế giới đang tiếp cận với cái có thể tạm gọi là một tiêu chuẩn mới. Chúng ta sẽ hình dung bản thân mình và những mục đích của mình như thế nào?

Những câu hỏi này đòi hỏi phải lên kế hoạch và tư vấn nhiều thành viên trong trường, và đó là quá trình còn đang thực hiện. Đây là những câu hỏi đòi hỏi phải có những quyết định và cân bằng các yếu tố khác nhau để đạt được sự kết hợp tốt nhất từ mọi bộ phận của nhà trường. Mỗi sự lựa chọn cụ thể sẽ có những tác động và ý nghĩa của riêng nó. Nhưng tôi muốn hướng sự chú ý của chúng ta hôm nay tới ý nghĩa của việc tích lũy để đi đến những quyết định ấy- một tổng thể vượt rất xa kết quả logic của từng bộ phận. Những sự lựa chọn này, như một tổng thể, sẽ tạo thành tuyên ngôn của chúng ta về niềm tin của Harvard rằng một trường đại học nghiên cứu của thế kỷ 21 nên là và cần phải là như thế nào.

Tôi muốn tập trung vài phút để nói về ba đặc điểm cốt lõi của trường đại học. Chỉ ba mà thôi. Sự phản ánh vắn tắt này không thể nói hết được những gì chúng ta phải làm và phải là trong tương lai. Nhưng tôi đã chọn ba đặc điểm ấy vì nó tiêu biểu cho những nhận thức đặc biệt quan trọng và đã tồn tại từ rất lâu về bản sắc của chúng ta – về những trách nhiệm và những cơ hội sẽ phải tiếp tục hướng dẫn chúng ta. Nhưng tôi cũng muốn lưu ý về những thử thách rất thực mà chúng ta phải đương đầu- với tư cách một trường đại học, cũng như một quốc gia- trong việc duy trì những cam kết này với một thế giới mà năm qua đã định nghĩa lại một cách khác đi nhiều so với trước đó.

Trước hết: Các trường đại học Hoa Kỳ đã từ lâu được xem là cỗ máy tạo ra cơ hội và sự ưu tú. Giáo dục là tâm điểm của giấc mơ Mỹ từ thời lập quốc. Tuy vậy tất cả chúng ta đều biết rằng học phí đại học tăng cao đã gây khó khăn cho nhiều gia đình trung bình ở Mỹ. Giữ cho giáo dục đại học ở mức người dân có thể chi trả được là điều cốt yếu đối với quốc gia và cốt yếu đối với Harvard. Nói đến cơ hội là nói đến sự công bằng, và đồng thời là sự ưu tú. Chúng ta cần phải là một thỏi nam châm để thu hút tài năng. Chúng ta đã hành động một cách kiên định với niềm tin chắc chắn này. Trong năm năm qua, chúng ta đã tạo ra một chương trình hỗ trợ tài chính có tác dụng biến đổi quan trọng, nghĩa là bảo đảm rằng mọi sinh viên có năng lực và tham vọng đều có thể theo học ở Harvard bất kể hoàn cảnh tài chính của họ. Và trong thập kỷ qua, chúng ta đã nâng cao gấp ba lần khoản hỗ trợ tài chính cho sinh viên và cho các trường chuyên ngành của chúng ta. Sự hỗ trợ đối với những sinh viên tài năng là một phần cốt lõi trong bản sắc của chúng ta, vì chúng ta tin rằng những ý tưởng hay nhất không xuất phát từ một giai cấp xã hội hay một dân tộc, giới tính, quê hương cụ thể nào. Đem lại cơ hội rộng rãi trong tiếp cận đại học là phương hướng cơ bản trong trách nhiệm và tính chính đáng trong hoạt động của chúng ta- chính trong mắt chúng ta, với những giá trị dựa trên chế độ tôn trọng nhân tài một cách mạnh mẽ; cũng như trong mắt xã hội rộng lớn đã dành cho chúng ta những ưu tiên như miễn thuế hay tài trợ nghiên cứu. Thậm chí khi nhu cầu nảy sinh trong sinh viên và nguồn quỹ hiến tặng giảm sút khiến những cam kết trên đây thành ra ngày càng quá tốn kém, chúng ta vẫn phải tái khẳng định những nguyên tắc về cơ hội tiếp cận như một nhân tố xác định chúng ta là ai. Vì chúng ta cam kết sẽ đem những người thông minh nhất vào trường Đại học Harvard, chúng ta sẽ phải tiếp tục đầu tư những giảng viên lỗi lạc nhất để hướng dẫn những con người thông minh ấy theo đuổi việc khám phá và nghiên cứu khoa học, những thứ đã định nghĩa nên Harvard như một trường đại học nghiên cứu ưu việt. Thậm chí ngay cả khi phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về nguồn lực, chúng ta cũng phải duy trì và xây dựng đội ngũ giảng viên này cho tương lai. Những sinh viên tài năng đòi hỏi phải có những giảng viên tài năng và ngược lại. Chúng ta hãy bảo đảm rằng mình sẽ tiếp tục thu hút và phát triển thành công cả hai đối tượng ấy.

Nhân tố thứ hai của bản chất trường đại học mà tôi muốn trình bày ở đây là vai trò của trường đại học như một địa điểm cơ bản của nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng ở Hoa Kỳ. Trong những năm sau thế chiến thứ hai, chính sách liên bang đã xây dựng nên một cơ cấu đòi hỏi việc nghiên cứu khoa học và khoa học xã hội được thực hiện dựa trên nhà nước và các trường đại học nghiên cứu. Nghiên cứu và phát triển thu hút không nhiều đầu tư của khu vực tư nhân và trong những năm gần đây thậm chí mức độ đầu tư khiêm tốn ấy còn tiếp tục giảm sút. Xu hướng này được biểu tượng hóa bằng hình ảnh co lại của Phòng Thí nghiệm Bell, nơi mà trong những thập kỷ trước đã từng thúc đẩy những nghiên cứu cơ bản chẳng hạn những khám phá được giải Nobel của Bộ trưởng Steven Chu, người đã nhận bằng danh dự của Harvard.

Nhưng ngay khi sự gắn bó của khu vực tư nhân đối với việc nghiên cứu bị giảm sút, sự hỗ trợ của chính phủ đối với nghiên cứu cũng giảm sút theo. Trong vòng ba thập kỷ vừa qua, ngân sách liên bang dành cho nghiên cứu và phát triển đã giảm sút hơn 15% theo tỷ lệ GDP của Hoa Kỳ. Gói kích cầu của liên bang đã đem lại sự cứu giúp tạm thời làm trì hoãn xu hướng này- với 21 tỉ đô la cho hai năm sắp tới, chính phủ đã đặt mục tiêu dành hơn 3% GDP cho nghiên cứu và phát triển ngay cả khi kế hoạch kích cầu kết thúc. Nhưng thâm hụt tài chính liên bang quá cao sẽ kết hợp với việc thu hẹp nguồn lực của nhà trường để tạo ra những thách thức gay gắt trong việc đáp ứng những dự định rất tham vọng ấy. Thậm chí ngay cả trước khi kinh tế suy sụp, mô hình hỗ trợ khoa học cũng đã cần phải xem xét lại toàn bộ. Một báo cáo của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia năm 2007 đã cảnh báo, đất nước chúng ta đã và đang đối mặt với một cơn bão dồn dập, quá ít sinh viên chọn theo học các ngành khoa học, quá ít người tìm được những hỗ trợ cần thiết để khởi động và duy trì sự nghiệp nghiên cứu của họ; quá nhiều người chọn những nghiên cứu an toàn và có thể dự đoán trước kết quả nhằm bảo đảm có được nguồn tài trợ; quá ít người có khả năng theo đuổi sự tò mò khoa học để đạt đến những ý tưởng cách mạng thực sự. Cuộc khủng hoảng tài chính chỉ làm lộ rõ những vấn đề vốn đã tồn tại về tương lai của nghiên cứu khoa học ở Hoa Kỳ, và về việc hỗ trợ cho khoa học tại các trường đại học nghiên cứu của chúng ta.

Quỹ kích cầu ngắn hạn không được làm chệch hướng chúng ta trong việc tìm kiếm những giải pháp lâu dài. Mức tài trợ của liên bang là một phần trọng yếu của câu trả lời, nhưng đó cũng chỉ là một phần. Chẳng hạn khi nghĩ về việc làm cách nào hỗ trợ cho khoa học trong bối cảnh kinh tế đã thay đổi, chúng ta sẽ thấy mình phải nghĩ tới những quan hệ hợp tác kiểu mới với các quỹ nghiên cứu và các doanh nghiệp, cũng như với các trường khác. Chúng ta đã thấy những quan hệ hợp tác giữa các khoa và trường trong phạm vi Harvard, với các bệnh viện trực thuộc, với Viện Broad, với MIT, và những trường đại học khác như những công việc cốt yếu mà chúng ta đang thực hiện trong việc nghiên cứu tế bào gốc, khoa học nguyên tử, công nghệ gen, và kỹ nghệ sinh học. Và khi chúng ta cân nhắc xem làm thế nào thực hiện được giấc mơ Allston, những quan hệ hợp tác với bên ngoài Harvard tỏ ra rất hứa hẹn. Nếu chúng ta, với tư cách Harvard và với tư cách một trường đại học nói chung, muốn duy trì được sự xuất chúng trong nghiên cứu khoa học thì cần phải tìm ra những cách mới vừa để thực hiện vừa để hỗ trợ cho nghiên cứu.

Ba là: các trường đại học phục vụ như những nhà phê bình và là lương tâm của xã hội. Chúng ta tạo ra không chỉ tri thức mà còn tạo ra những câu hỏi, tạo ra những hiểu biết bắt nguồn từ chủ nghĩa hoài nghi, từ sự không ngừng đặt câu hỏi chứ không phải từ sự thống trị của những tri thức thông thái được chấp nhận không cần thử thách. Hơn bất cứ một tổ chức nào khác trong xã hội, cốt lõi của các trường đại học là tầm nhìn dài hạn và những quan điểm phản biện, và những điều này có được chính là vì đại học không phải là sở hữu của riêng hiện tại.

Gần bốn thế kỷ qua, Harvard đã nhìn xa hơn những sự hữu dụng và thích đáng tức thời, thoải mái đặt những giả định hiện tại vào sự thử thách gắt gao của những nơi chốn khác và thời đại khác. Các trường đại học thường xuyên được đánh giá bằng tiêu chuẩn có ích – bằng những đóng góp của họ cho sự cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Chúng ta có thể đưa ra nhiều ví dụ minh họa mạnh mẽ cho luận điểm này. Harvard là nhà tuyển dụng tư nhân lớn thứ nhì trong vùng trung tâm Boston và trực tiếp hay gián tiếp có các hoạt động kinh tế với giá trị trên 5,3 tỉ đô la Mỹ cho Massachusette trong năm qua. Nhưng những đóng góp như thế chỉ là một phần của những gì các trường đại học đã làm và đã tạo nên ý nghĩa trường đại học. Chúng ta cần các trường đại học không chỉ cho những mục tiêu có tính công cụ và tức thời như thế.

Tôi lo rằng các trường đại học chúng ta chưa làm tốt những gì có thể và đáng lẽ phải làm trong việc đặt ra những câu hỏi sâu xa và đáng lo ngại về tính chính trực của bất cứ xã hội nào. Khi thế giới tự cho phép mình hưởng thụ trong cái bong bóng phồn vinh giả tạo và chủ nghĩa tôn sùng vật chất, nên chăng chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa –qua nghiên cứu, giảng dạy và viết lách- phơi bày những dấu hiệu rủi ro và tâm lý muốn chối bỏ sự thật phũ phàng đang hiện diện trong những lựa chọn kinh tế và tài chính hàng ngày? —Nên chăng hệ thống giá trị của chúng ta cần phải đưa ra một đối trọng và thách thức vững chắc hơn đối với thói vô trách nhiệm và sự quá đáng, đối với lối suy nghĩ chạy theo lợi ích trước mắt và để lại hậu quả lâu dài?

Đặc quyền về tự do học thuật gắn liền với nghĩa vụ nói lên sự thật ngay cả khi điều đó hết sức khó khăn hay không được nhiều người ưa chuộng. Vậy là rốt cục nó quay lại biểu tượng Sự Thật trên tấm khiên của Harvard- sự cam kết dùng kết quả nghiên cứu và tri thức để xóa tan ảo tưởng, sự thiên lệch, thành kiến và tính tư lợi. Sự thật này có thể đến dưới hình thức những hiểu biết sâu sắc của khoa học không bị chi phối bởi ý thức hệ và chính trị. Nó cũng có thể đến trong công trình của các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, những người đã giúp chúng ta biết cách đọc và suy nghĩ một cách độc lập, cũng như đã đem lại cho chúng ta những quan điểm khác biệt của những tiếng nói khác, từ những nơi chốn khác, thời đại khác. Nó có thể đến thông qua sức mạnh tái hiện độc nhất của nghệ thuật- những thứ đã giúp chúng ta có khả năng hiểu được chính mình và hiểu được thế giới chung quanh nhờ biết thay đổi con mắt và lỗ tai. Nó có thể đến qua những câu hỏi về đạo đức và trách nhiệm được đặt ra trong chương trình giáo dục tổng quát cho tất cả các khoa chuyên ngành trong trường chúng ta. Thực tế là trong mấy tuần qua một nhóm sinh viên Trường Kinh doanh đã sáng tạo ra “lời tuyên thệ của doanh nhân” nhằm bảo đảm mọi sinh viên ra trường sẽ “phục vụ tốt hơn nữa cho điều thiện”. Được hỏi làm cách nào các trường quản trị kinh doanh và sinh viên của họ có thể ngăn chặn hay đẩy lùi cuộc khủng hoảng tài chính, câu trả lời của những sinh viên ấy là họ sẽ tìm cách khuyến khích lương tâm và sự tỉnh táo trong việc đào tạo nghề kinh doanh cũng như trong việc kinh doanh như một hoạt động nghề nghiệp.

Việc nâng cao vai trò của chúng ta như những nhà phản biện và hoài nghi chỉ có được nhờ giáo dục sinh viên, nơi chúng ta tìm cách, theo lời của Chương trình Giáo dục Tổng quát mới, là “làm đảo lộn các giả định hay thành kiến, biến những thứ quen thuộc thành cái gì lạ lùng như lần đầu được thấy..nhằm làm mất phương hướng những người trẻ tuổi và giúp họ tìm cách tự mình định hướng lại cho chính mình”.

Khi thích nghi với một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, chúng ta phải một lần nữa xây dựng lại truyền thống giáo dục tự do và những yêu cầu nhân văn của Harvard. Những truyền thống ấy có thể tạo ra khả năng tự nghiên cứu và tự nhận thức giúp chúng ta vượt qua sự hoài nghi để đến được sự thông thái khôn ngoan.

Trường đại học là cỗ máy sản sinh ra những cơ hội, là mảnh đất chủ yếu của hoạt động nghiên cứu khoa học ở Hoa Kỳ; cũng là người nói lên sự thật; đó là ba nhân tố cơ bản trong nhận thức của chúng ta về trường đại học. Tuy từng nhân tố ấy đang phải đối mặt với những thử thách trong kỷ nguyên mới phía trước chúng ta, những thách thức về cơ chế, về khả năng chi trả, về hệ thống giá trị. Và chúng ta bị thách thức trong việc chứng minh những cam kết của mình đối với ba nguyên tắc ấy, những nguyên tắc bao đời nay đã là trọng tâm của những điều chủ yếu đã định nghĩa nên chúng ta như một trường đại học. Chúng ta không được xem những nguyên tắc ấy là đương nhiên, chúng ta không được đánh mất khả năng nhìn vào những nguyên tắc ấy khi chúng ta buộc phải lựa chọn giữ lại cái gì và bỏ qua cái gì trong những tháng năm sắp đến. Nhưng chúng ta phải tạo ra những phương cách mới để duy trì những nguyên tắc ấy trong một thời đại đã có nhiều đổi thay. Chúng ta có trách nhiệm với những truyền thống ấy và những giá trị mà truyền thống ấy đại diện – đó chính là niềm tin rằng sự cởi mở và tự do theo đuổi chân lý sẽ tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta. Đó chính là điều thôi thúc tất cả những gì chúng ta làm và cho thấy chúng ta có ý nghĩa gì – trong thời khắc này cũng như trong nhiều năm sắp đến.

Phạm Thị Ly dịch

Nhạc trưởng nổi tiếng người Anh đi "du lịch tự sát" cùng vợ

Edward Downes từng chỉ đạo các dàn nhạc nổi tiếng thế giới nhưng ông đã gần như bị mù và điếc. Còn người vợ kề vai áp má suốt 54 năm bị chuẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Vì thế, hai vợ chồng ông đã quyết định cùng nhau lên thiên đường.


Ông Edward Downes và bà vợ Joan.

Nhạc trưởng Downes, được biết tới với tên gọi Sir Edward kể từ khi ông được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước hiệp sĩ vào năm 1991, và người vợ Joan Downes đã kết liễu cuộc đời họ hồi tuần trước tại một trung tâm ở Zurich, Thụy Sĩ với sự trợ giúp của Công ty trợ giúp tự sát Dignitas. Họ đã uống một liều thuốc màu trắng và qua đời tay trong tay trước sự chứng kiến của hai người con. Ông Downes hưởng thọ 85 tuổi còn người vợ Joan thọ 74 tuổi.

Sự ra đi của họ là nốt nhạc cuối đối với sự nghiệp âm nhạc danh tiếng của ông Edward Downes và đã làm nảy sinh một cuộc tranh luận sôi nổi tại Anh về việc liệu có nên giúp đỡ các bệnh nhân mắc bệnh nan y được chết một cách nhẹ nhàng hay không.

Các con của Downes và Joan cho hay, cha mẹ họ đã ra đi “nhẹ nhàng và theo đúng ước nguyện” hôm thứ 6 tuần trước. “Sau 54 năm sống hạnh phúc bên nhau, họ đã quyết định kết thúc cuộc sống hơn là tiếp tục vật lộn với bệnh tật”, một tuyên bố từ người con trai và con gái của cặp đôi, Caractacus và Boudicca, nói.

“Họ muốn ở bên cạnh nhau khi qua đời. Cha mẹ đã cùng nắm tay nhau trên giường để vào cõi vĩnh hằng”, Caractacus Downes cho biết. “Đó là cách kết thúc cuộc sống rất văn minh”.

Jonathan Groves, nhà quản lý của ông Downes, cho hay vợ chồng Downes không thể sống thiếu nhau và đã thống nhất cùng sang bên kia thế giới. “Sir Edward vẫn có thể sống sau khi người vợ qua đời, nhưng ông ấy không muốn làm thế. Ông ấy không muốn tiếp tục sống mà không có vợ”.

Là một trong những nhạc trưởng nổi tiếng nhất của Anh, ông Downes đã gây dựng được sự nghiệp âm nhạc xuất chúng. Ông từng chỉ đạo dàn nhạc giao hưởng BBC Philharmonic trong nhiều năm và đã hợp tác với Nhà hát Opera Hoàng gia suốt 5 thập kỷ.

Nhưng trong những năm cuối đời, ông Downes đã gần như bị mù, điếc và ngày càng phục thuộc vào các thiết bị trợ giúp.

Bà Joan, một cựu vũ công ba-lê, biên đạo múa kiêm nhà sản xuất truyền hình, đã làm việc nhiều năm với tư cách trợ lý cho chồng. Gần đây, bà Joan bị chuẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối. Các bác sĩ dự đoán, bà chỉ sống được vài tuần nữa.

Tranh cãi về quyền tự sát hợp pháp

Một ngôi nhà ở Pfaeffikon gần Zurich, nơi Dignitas trợ giúp các bệnh nhân đi du lịch về cõi vĩnh hằng.

Edward Downes là một trong những người nổi tiếng ở Anh tới Thụy Sĩ để được kết thúc cuộc sống của mình theo cách không đau đớn. Jonathan Groves cho hay ông đã bị sốc khi nghe tin về cái chết của vợ chồng Downes nhưng gọi quyết định của họ là “dũng cảm”.

Câu chuyện của vợ chồng ông Downes cũng là trường hợp mới nhất trong hàng loạt các vụ việc làm nảy sinh lời kêu gọi thay đổi luật pháp tại Anh, nơi quyền được chết và trợ giúp người mắc bệnh nan y tự sát đang bị cấm.

Theo luật pháp Anh, hình phạt tối đa cho ai đó giúp đỡ một người mắc bệnh nan y tự sát là 14 năm tù. Nhưng trong những năm gần đây, các tòa án đã không kết án tù những người trợ giúp các bệnh nhân thực hiện ước nguyện của họ. Không người thân, bạn bè của bất kỳ một người Anh nào đã qua đời tại các trung tâm của Dignitas tại Thụy Sĩ bị truy tố.

Sở cảnh sát London cho biết họ đã được thông báo về vụ tự sát của vợ chồng ông Downes và đang điều tra vụ việc. Nhiều khả năng cũng không ai bị ra tòa trong vụ việc này.

Mặc dù quan điểm của người Anh giờ đây đã thay đổi nhưng các nỗ lực nhằm sửa đổi luật pháp cho tới nay vẫn thất bại. Tuần trước, Thượng viện Anh đã không thông qua một luật sửa đổi nhằm nới lỏng những quy định cấm về quyền được chết.

Hơn 100 người Anh đã qua đời tại các trung tâm của Dignitas ở Thụy Sĩ kể từ khi công ty này được thành lập năm 1998.

Khoảng 100 người nước ngoài - hầu hết là đang bị bệnh rất nặng - đã tới Thụy Sĩ mỗi năm theo một loại hình du lịch có tên gọi là “du lịch tự sát”. Họ sẽ ra đi không đau đớn bằng cách vào phòng của Dignitas, uống một liều thuốc an thần. Năm phút sau, họ ngủ thiếp đi và sẽ không bao giờ tỉnh lại.

Từ năm 1942, luật pháp Thụy Sĩ đã cho phép giúp đỡ các bệnh nhân mắc bệnh nan y được tự tử. Vài nước khác, trong đó có Hà Lan, Bỉ, các bang Oregon và Washington của Mỹ, cũng công nhận tự tử hợp pháp.

Tại Thụy Điển, có nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ trợ giúp bệnh nhân tự sát, nhưng Dignitas là công ty chuyên phục vụ người nước ngoài. Phí dịch vụ tại Dignitas là 10.000 franc Thụy Sĩ, tương đương 9.200USD.

An Bình
Theo AP

Kết thúc vào buổi sáng - Cấn Vân Khánh

Cô vừa nằm ngả xuống, úp mặt xuống gối đã thấy những ngón tay anh mơn trớn ngay sau lưng, kịp thời, từ lúc nào một cách chủ ý anh đứng nép vào tường chứng kiến cô ngơ ngác đi ra và từ từ dấn từng bước một theo sau lưng cô, bất ngờ và làm cho cô thấy tràn đầy xúc cảm. Anh hôn cô từ cổ và không nhìn thấy đôi mắt cô khép hờ. “Thôi nào quay lại đây đi, anh năn nỉ đấy!”. Cô lắc đầu nguầy nguậy, anh kéo cánh tay cô khiến chiếc khăn tắm tuột xuống, và lúc này thì lạ thay cô không còn xấu hổ

Cô soi gương thật kỹ, môi mím lại, tóc ướt sũng rủ xuống khuôn ngực gầy và trắng, mùi sữa tắm dịu dàng trên làn da, cô kéo chiếc khăn tắm lên quấn hờ một vòng rồi bước ra ngoài.

Cô không nhìn thấy anh, chỉ thấy vài cuốn tạp chí về kiến trúc vương vãi trên giường. Nơi chiếc gối anh và cô gối đầu chung chai nước hoa của anh nằm gọn đó, còn thoang thoảng hương vây quanh. Chai nước hoa cô mua cho anh nhân dịp cuốn sách thứ ba của cô xuất bản. Cô đã ngần ngừ mãi ở quầy mỹ phẩm tại trung tâm thương mại để thử mùi từng loại một, tự hỏi không biết anh sẽ hợp với loại nào. Dù cô biết chẳng cần nước hoa. Sự gợi cảm nơi anh cũng đủ khiến cô xao động. Cuối cùng, cô chọn Hugo Boss, cô nghĩ anh sẽ thích bởi nó ẩm và nồng nàn.

Cô chuyển vào Sài Gòn cho anh theo đường bưu điện và quả thật anh đã rất bất ngờ, anh gọi điện cho cô, vừa nói vừa cười, rằng tại sao cô luôn khiến anh phải ngạc nhiên đến thế, rằng cô thật là tinh tế, cô luôn thích gây bất ngờ cho người đàn ông cô yêu. Hôm nay nó đã ở đây, sóng sánh đầy ắp từng giọt thấm trên da thịt, trên tóc anh. Anh đã không dùng nó khi thiếu vắng cô, anh chỉ dùng khi anh ở bên cô.

Cô vừa nằm ngả xuống, úp mặt xuống gối đã thấy những ngón tay anh mơn trớn ngay sau lưng, kịp thời, từ lúc nào một cách chủ ý anh đứng nép vào tường chứng kiến cô ngơ ngác đi ra và từ từ dấn từng bước một theo sau lưng cô, bất ngờ và làm cho cô thấy tràn đầy xúc cảm. Anh hôn cô từ cổ và không nhìn thấy đôi mắt cô khép hờ. “Thôi nào quay lại đây đi, anh năn nỉ đấy!”. Cô lắc đầu nguầy nguậy, anh kéo cánh tay cô khiến chiếc khăn tắm tuột xuống, và lúc này thì lạ thay cô không còn xấu hổ.

Cô sẽ nhớ mãi những khoảnh khắc, khi môi anh run run mềm mại áp chặt môi cô, thì thào những câu chỉ một mình anh hiểu, và lúc đó cô dang đôi bàn tay níu anh về phía mình. Thân thể cô căng phồng như một trái bóng.

Cô có vài đêm quấn quýt bên anh, và đây là lần thứ hai, với người đàn ông được gọi là nhân tình, vì anh đã có vợ, được nhìn thấy anh đi lại trong căn phòng ấm áp rất nhiều hoa, nghe anh nói những câu chuyện lạ lùng, mỗi câu chuyện của anh đều lạ lùng. Cô thường rủ anh đi bộ xung quanh bất kỳ cái hồ nào đó trong thành phố và bảo với anh rằng khi anh đi khỏi nơi này, em vẫn một mình đi dạo và cảm thấy rất buồn, em hay dừng lại ở một chiếc ghế đá nào đó, đọc vài trang sách, nhìn những đôi trai gái nắm tay nhau thật chặt nhưng tự nhủ rồi mình sẽ vượt qua. Lúc đó em thấy bàn tay em rất lạnh, những ngón tay lạnh buốt thèm nhúng xuống nước ấm và cảm giác bắt đầu được xoa dịu sẽ lan tỏa khiến em nguôi ngoai phần nào.

Chỉ cần cô nói đến đó anh gọi taxi ngay lập tức. “Chúng ta phải đi thôi”. “Ngay bây giờ sao?”. “Đúng rồi, ngay bây giờ!”, anh trở nên cuống quýt.

Bất kể cô hét ầm lên là cô chỉ muốn nằm trong chăn nghe nhạc mà thôi, anh cũng kéo cô bằng được ra khỏi phòng.

Cô nhủ thầm cô còn cả cuộc đời dành cho anh nên cô còn có thể trì hoãn được.

Rồi đến lúc…

Anh tạm biệt cô, không kịp nhìn cô khóc một mình, anh thức dậy từ rất sớm và kéo vali thật khẽ, không quên ôm chầm lấy cô, cô nghe tiếng giày của anh xa dần xa dần và nước mắt cô rơi xuống, những giọt nước trong vắt. Cô im lìm, chỉ đủ ngưng lại các giác quan trong vài giây rồi nhắn một cái tin để anh kịp đủ nhận trước khi lên máy bay: “Anh sẽ ly dị chứ?” và chỉ cần mười lăm phút sau, cô đứng dậy, mặc chiếc váy kẻ ca rô bước ra phố mang theo tâm trạng trống rỗng, dù anh nhắn lại ngay lập tức cho cô: “Anh sẽ ly dị!”.

Cô sẽ không viết được gì sau vài ngày ấy, chỉ có thể độc thoại, nghĩ và phiền muộn đến khi anh viết mail cho cô, nói rằng anh rất khỏe và tất cả những gì anh có đều chỉ thuộc về cô.

Thực sự là cô không có khả năng nghi ngờ anh, khi yêu người ta không có khả năng nghi ngờ.

Mùa đông đến sớm, cô hằng tuần chat với anh hoặc viết mail. Anh hẹn cô mùa đông sẽ lại ra Bắc gặp cô. Cô nhớ đôi mắt nhìn thẳng của anh, nhớ cả tật xấu hay hút thuốc của anh, đến nỗi khói thuốc của một chàng trai trong quán cà phê cũng làm cho cô nhớ anh. Cô bắt chuyện với anh ta khi đi ngang qua, bật cười khi thấy nhãn hiệu thuốc lá của anh ta giống anh. Còn lại thì anh trở nên khác biệt. Hoàn toàn khác biệt với bất kỳ người đàn ông nào cô gặp trên đường. Có khi anh thổ lộ với cô rằng anh đã thực sự rất bối rối khi lần đầu tiên nhìn thấy cô, đến mức anh phải hút một bao thuốc trong đêm hôm đó. Ngay cả khi anh không còn ngủ chung với vợ và thi thoảng đi làm về muộn phải tìm một khách sạn nào đó để qua đêm, anh vẫn không hút nhiều đến thế.

Điều đó khiến cô cảm động rất nhiều.

Anh nói rằng anh thích cô sơn móng tay màu đỏ, tô son đỏ và ngồi gõ bàn phím, trông cô trẻ trung, hấp dẫn một cách đặc biệt. Anh cũng không bao giờ ghen với các nhân vật nam trong tiểu thuyết của cô.

Và anh biết rằng anh cần cô, song anh không nghĩ anh có thể có được cô nhanh như thế.

Anh kể lể rất thật và luôn làm cho cô hãnh diện vì được anh để mắt đến. Anh không tin là cô có một quãng thời gian rất dài phải sống một mình, đi du lịch một mình, hoàn toàn cô độc, kiêu kỳ và không có nhu cầu gặp bất kỳ ai. Đến mức có lúc cô nuôi tóc thật dài và luôn sa vào trầm cảm. Cô viết về những mối tình ngắn ngủi, gieo vào lòng bất kỳ ai đọc nó những hồ nghi và hoảng hốt. Và cô biết mình hơi vô trách nhiệm, dù với cô tuổi thanh xuân luôn đẹp.

Anh chat với cô, thường hỏi cô bằng những câu hỏi khiến cô khó quên. Cô ghi vào giấy và dán lên tường gần nơi cô ngủ. “Hãy nói cho anh biết căn phòng của em có đủ ấm không?”. Cô đọc rất to và tưởng tượng anh đứng trước mặt, cô hét ầm lên vì sung sướng.

Cô đã luôn sống bằng cảm xúc của mình với anh, điều cô chưa từng làm với một người đàn ông nào trước đó. Cô đã quên rằng cô lo toan điều gì sẽ đến với mình, trong mối quan hệ hoặc một mối ràng buộc nào đó, vì anh ở trong máu cô, ý nghĩ, thói quen, sự phụ thuộc hoàn hảo. Cô đã may mắn biết bao khi tìm được anh.

Nhiệt độ xuống thấp kéo dài, thành phố cũng thở ra khói, một màu lam trắng vào buổi sớm, cô thức dậy, trèo lên xe buýt đi chợ. Cô ghé vào hàng len mua vài cuộn len màu xanh rêu, cô lại tiếp tục tốn thời gian để suy nghĩ xem với dáng người anh, anh sẽ hợp với màu gì, điều đó hao tổn tâm trí của cô gấp nghìn lần và cô tự hỏi không hiểu tại sao mình lại mệt đến thế. Cô nhìn ngó, so sánh và hỏi han từng người một rằng đàn ông thì có thể khoác trên mình chiếc khăn có màu sắc như thế này không? Về đến nhà, cô gỡ từng sợi len và bắt đầu đan, cô tính trong vòng một tuần cô sẽ hoàn thành và lúc đó, cô sẽ kịp tặng cho anh.

Chiếc khăn khiến tay cô tím bầm, và vì vội vã, mũi kim nhọn vô tình đâm vào ngón tay cô chảy máu. Đúng vào ngày cô ra sân bay đón anh. Cô ngồi đợi anh mãi, vừa thấy anh cô đã chạy đến thật nhanh, cô quàng khăn cho anh, anh kịp nhìn tay cô và nhăn nhó: “Tại sao thế?”. “Em bất cẩn!”. Anh đưa tay cô lên miệng và hôn.

Anh hôn vào chiếc khăn mà cô đan. Và anh cũng đã hôn cô rất nhiều sau đó.

Cô chỉ muốn hỏi anh rằng: “Anh đã ly dị chưa?”. Cô hy vọng tất cả đã hoàn tất… Nhưng anh không cho cô cơ hội. Anh dắt cô đi khắp thành phố, ghé vào những quán cà phê êm dịu và đầy mơ mộng. Họ đi dạo rất nhiều khiến chân cô mỏi nhừ, anh đã cõng cô lên những bậc cầu thang lên phòng. Anh đợi cô bước ra từ nhà tắm, và anh lại bất ngờ xuất hiện sau lưng, nhẹ nhàng nhấn chìm cô lúc nào không hay. Ngày nào cũng như ngày nào.

Nhưng cũng có ngày cô và anh im lặng, cho đến lúc anh phải xa cô. Những điều đã qua được lặp lại như một cuộn phim, dĩ nhiên với cô anh có thể lặp lại hàng triệu lần làm sao cô chán nổi, vì tình yêu của cô là một căn bệnh.

Kết thúc vào buổi sáng, anh đi khỏi, trở về thành phố nơi anh sinh ra, cô khỏa thân dưới ánh đèn dịu dàng nhắn cho anh: “Anh sẽ ly dị chứ?” rồi đứng dậy tròng chiếc váy vào người nhưng chân cô không vững, cô ngã xuống gối, cô ngửi thấy mùi nước hoa và chóng mặt. Cô muốn đi ra phố, cô ghé ngang quán cà phê, ngồi co ro và nôn nao vì chờ đợi. Phải một lúc lâu, rất lâu mới thấy chuông điện thoại rung, anh đã nhắn cho cô, có lẽ khi máy bay vừa cất cánh:

“Mình là người tình được không em?”.

Cô cất điện thoại vào túi áo. Bên kia đường, chàng trai hút thuốc nhãn hiệu giống anh vừa chạy ngang qua, lạ thay cô vẫn còn kịp nhận ra. Cô nghển cổ nhìn theo. Lần đầu tiên cô có cảm giác gương mặt anh và anh ta giống nhau. Những người đàn ông đều có những gương mặt giống nhau. Cô đưa ngón tay sưng tấy lên miệng ngậm. Lạ thay, cô đã mất hết cảm giác đau đớn.