Showing posts with label culture. Show all posts
Showing posts with label culture. Show all posts

Saturday, January 31, 2009

Người Việt và văn hóa đánh đổi

(TuanVietNam) - “Công ăn việc làm ổn định trong cơ quan Nhà nước” - đó là nguyện vọng của không ít người VN trong độ tuổi lao động. Người ta thích một chỗ làm việc yên ấm hơn là “chạy lung tung” nơi này nơi kia hoặc ra làm riêng, đối mặt với sóng gió thương trường. Nhìn sâu hơn vào vấn đề, có thể suy rộng ra một đặc điểm tâm lý của số đông người Việt: nỗi sợ sự đánh đổi.

Phát triển nhìn từ văn hóa của sự đánh đổi

Đối với một cá nhân, một doanh nghiệp hay với cả quốc gia, luôn tồn tại sự đánh đổi giữa trạng thái phát triển về mặt vật chất và trạng thái thư giãn về mặt tinh thần. Muốn phát triển thì phải đánh đổi, triết lý phát triển là gì nếu không phải là khuyến khích và thúc ép một nền văn hóa sẵn sàng chấp nhận sự đánh đổi.

Theo thống kê năm 2006, ở Mỹ, khoảng 400.000 người mất việc hàng tuần; và cùng thời gian đó, khoảng 600.000 người thay đổi việc một cách tự nguyện. Trung bình, một người Mỹ gắn bó với một công việc trong vòng 6,6 năm, so với 10,6 năm của Đức và 11,2 năm của Nhật Bản. (*)

Mô hình kinh tế thị trường cạnh tranh tự do của Mỹ được cho là mô hình hiệu quả nhất, năng động nhất, nhiều sáng tạo nhất và cũng phát triển nhất. Nhưng đừng bao giờ quên rằng, đó là mô hình nhiều áp lực nhất. Cạnh tranh tự do đã liên tục tạo ra sức ép phải đổi mới, phải thay đổi.

Lịch sử đã chứng minh rằng mô hình tự do đã tạo ra xung lực mạnh mẽ cho sự phát triển, đó là mô hình có hiệu quả hơn cả cho nền kinh tế quốc gia xét như một tổng thể. Trong dài hạn, nó đã thể hiện tính ưu việt hơn các mô hình kinh tế kế hoạch tập trung hay hỗn hợp mà thành phần nhà nước chiếm ưu thế. Nhưng, xét trong ngắn hạn và xét trên bình diện mỗi cá nhân hay doanh nghiệp, mô hình tự do cạnh tranh không hẳn đã là tốt nhất.

Doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh luôn đứng ở bờ vực mong manh của khả năng bị đào thải, bị phá sản. Thống kê ở Mỹ cho thấy, 80% số doanh nghiệp mới thành lập không thể trụ được quá 3 năm và 98% “sập tiệm” sau 10 năm. Trên thế giới, nói chung, doanh nghiệp tư nhân trong môi trường tự do phải gánh chịu rủi ro cao gấp nhiều lần doanh nghiệp nhà nước trong môi trường “ổn định”.

Mỗi cá nhân, dù là nhân viên bình thường hay nhà quản lý, sống trong môi trường cạnh tranh luôn phải chịu những căng thẳng tâm lý rất lớn. Họ thường xuyên phải phấn đấu, phải vươn lên để trụ được và phát triển trong những công ty đang phải cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ. Thất nghiệp và thay đổi công việc là chuyện cơm bữa ở các quốc gia có nền kinh tế cạnh tranh mạnh.

Cựu Giám đốc Cục dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan có một so sánh cực kỳ thú vị liên quan đến sự đánh đổi giữa giàu có vật chất và căng thẳng tâm lý. Ông viết: “Hầu hết các nước đều phải lựa chọn một chỗ đứng giữa hai thái cực tượng trưng bằng hai điểm trên bản đồ: Thung lũng Silicon ở một cực với năng suất cao, áp lực lớn, và Venice thủ cựu, ung dung tự tại ở cực bên kia”.

Hai yếu tố tác động tới sự sẵn sàng đánh đổi

Trong dài hạn, phát triển có nghĩa là phải chấp nhận sự đánh đổi. Không thể có phát triển trong một môi trường mà các doanh nghiệp trì trệ bởi thiếu cạnh tranh, con người trì trệ bởi thiếu nỗ lực vươn lên. Quán tính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp là rất lớn, họ sẽ không đánh đổi nếu như không có sức ép từ bên trong và bên ngoài phải đánh đổi.

Nghiên cứu phát triển phải nghiên cứu tâm lý học của sự đánh đổi, nghiên cứu những yếu tố tác động khiến cá thể phải đánh đổi sự lười biếng cá nhân vì sự năng động cộng đồng. Theo tôi, có hai nguyên nhân ở tầm vĩ mô có khả năng thúc ép các doanh nghiệp và cá nhân phải đánh đổi.

Yếu tố thứ nhất là văn hóa, đây là yếu tố sẽ tạo ra lực đẩy bên trong của sự đánh đổi. Một nền văn hóa có truyền thống cởi mở, khuyến khích làm giàu, khuyến khích tự do kinh doanh sẽ tạo ra những con người sẵn sàng đánh đổi, những doanh nghiệp sẵn sàng đánh đổi nhiều hơn một nền văn hóa cô lập, khép kín, bảo thủ.

Một nền văn hóa tôn vinh những con người tự do sáng tạo, tự do làm giàu sẽ mang lại những thành tựu đột phá trong phát triển hơn một nền văn hóa coi giàu có là phù hoa, trái đạo lý, thậm chí tội lỗi.

Ngay cả ở những quốc gia phương Tây, cùng lấy tự do và duy lý làm giá trị nền tảng như Mỹ và Pháp, độ chênh văn hóa vẫn tạo ra sự khác biệt trong văn hóa đánh đổi. Thăm dò cho thấy, 71% người Mỹ cho rằng hệ thống thị trường tự do là mô hình tốt nhất trong khi chỉ 36% người Pháp cho như vậy. 75% thanh niên Pháp muốn làm việc cho chính phủ trong khi rất ít thanh niên Mỹ muốn thế. Mỹ đương nhiên có nền kinh tế tư bản phát triển năng động hơn Pháp. (**)

Yếu tố thứ hai là thể chế, đây là yếu tố sẽ tạo ra lực đẩy bên ngoài của sự đánh đổi. Một thể chế với hệ thống luật lệ bảo vệ quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu trí tuệ mạnh mẽ sẽ tạo ra khuôn khổ để cá nhân, doanh nghiệp thành công trong sự lựa chọn đánh đổi của mình. Một thể chế với các doanh nghiệp tư nhân làm cột trụ chắc chắn sẽ khích lệ tính cạnh tranh nhiều hơn một thể chế mà doanh nghiệp nhà nước độc quyền hay nắm vai trò chủ đạo.

Việt Nam có sẵn sàng cho sự đánh đổi?

Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh bởi đạo Khổng và phần nào nữa là đạo Phật. Khổng giáo vốn trọng lễ nghi, thứ bậc, hình thức. Phật giáo khuyến khích an nhiên, tự tại, đơn giản. Nhiều người cho rằng cả hai trào lưu tư tưởng này đều phản tư do. Quan niệm như vậy là cực đoan, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, hai luồng tư tưởng này đều không mấy khuyến khích những con người năng động, sẵn sàng chiến đấu, vươn lên trong môi trường cạnh tranh tự do khốc liệt.

Xã hội vẫn tồn tại tâm lý khuyến khích hình thức, lễ nghi hơn là thực chất, hiệu quả; tâm lý học để làm quan chứ không phải để ứng dụng trong thực tiễn; tâm lý hưởng thụ an nhàn hơn là cố gắng, phấn đấu.

Những nét tâm lý đó không hẳn hoàn toàn tạo ra bởi văn hóa nhưng phần nào xuất phát từ văn hóa. Xét về khía cạnh văn hóa, Việt Nam chưa thực sự có được sự hẫu thuẫn mạnh mẽ cần thiết cho những con người dấn thân đánh đổi.

Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh khốc liệt và nền kinh tế đi theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Thời gian mở cửa và bước vào nền kinh tế thị trường mới chỉ hơn 20 năm, thể chế mới đã định hình nhưng chưa đạt những chuẩn mực của thế giới. Những tàn dư của thế chế cũ không tạo ra môi trường cho sự cạnh tranh quyết liệt và bình đẳng.

Tâm lý bám víu vào thể chế cũ, quan niệm cũ để tránh sự khốc liệt của cạnh tranh, tìm kiếm sự ổn định vật chất và tinh thần vẫn hằn sâu trong não trạng của rất rất nhiều người. Ngay cả với những người có tinh thần đổi mới, sáng tạo vươn lên, sự đền bù họ nhận được từ tinh thần đó cũng không đủ lớn, thậm chí ngược lại, họ phải trả giá vì đã đánh đổi.

Họ dễ dàng quay về tìm kiếm những không gian bình yên hơn là dấn thân bước vào một môi trường nhiều rào cản và bị bóp méo bởi những thành tố phi logic, phi thị trường. Xét về khía cạnh thể chế, Việt Nam cũng chưa có được nền tảng cần thiết để thực sự mở đường cho sự đánh đổi.

Nhìn đi phải nhìn lại, không thể phủ nhận rằng 20 năm đổi mới đã tạo ra một bước khởi đầu. Khu vực tư nhân từ chỗ không có gì nay đã là khu vực tạo ra công ăn việc làm nhiều nhất (50% lực lượng lao động, số liệu năm 2006), đóng góp vào GDP nhiều nhất (41,3% năm 2006) trong khi đó lại chiếm tỷ trọng vốn đầu tư ít nhất (28% so với 50% của nhà nước). Sự hiệu quả và năng động của khu vực này góp phần quyết định vào thành công của hơn 20 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế Việt Nam. (***)

Sự thành công của khu vực tư cũng đã góp phần nhất định, tạo áp lực ngược lại khiến văn hóa và thể chế thay đổi. Những nhìn nhận về vai trò của thực học, của doanh nhân, của mô hình thị trường tự do… đã thay đổi nhiều từ sau đổi mới và đang diễn tiến theo chiều hướng ngày một ủng hộ và cởi mở hơn. Tâm lý bám víu cũng đã giảm dần nếu so sánh với nhiều năm trước.

Thế nhưng, sự đổi thay ấy vẫn chưa đủ. Chúng ta vẫn không có được bầu sinh khí mạnh mẽ của một môi trường khuyến khích đánh đổi, vẫn chưa cảm thấy sức nóng của nhiệt huyết sáng tạo, năng lượng của nỗ lực cạnh tranh để kiếm tìm thịnh vượng và sự khẳng định.

Ngay cả trong nội bộ đất nước, sự năng động của môi trường cạnh tranh ở các tỉnh phía Nam cũng đã mạnh mẽ hơn nhiều các tỉnh phía Bắc, đó cũng là một lý do giải thích tại sao khu vực phía Nam lại phát triển nhanh và mạnh hơn.

Phát triển, như đã nói ở trên, là phải chấp nhận sự đánh đổi. Nhưng mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp có sự lựa chọn hợp lý đối với họ, họ có thể không sẵn lòng đánh đổi và không muốn đánh đổi lợi ích ngắn hạn cho tiềm năng dài hạn, quyền lợi cục bộ cho phát triển toàn bộ. Và không ai có quyền bắt buộc người khác phải đánh đổi. Đánh đổi không nảy sinh từ sự bắt buộc mà từ sự thúc đẩy. Nhà nước với tư cách là người hướng dẫn, người lãnh đạo mới cần phải tạo ra sự thúc đẩy đó bằng văn hóa và thể chế.

Văn hóa là lực đẩy bên trong, thể chế là lực đẩy bên ngoài. Đó là hai chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa phát triển. Và chính nhà nước cũng phải đóng vai trò tiên phong trong quá trình đánh đổi ấy.

Khánh Duy

(*), (**) Số liệu lấy từ cuốn The Age of Turbulence (Kỷ nguyên hỗn loạn) của Alan Greenspan

(***) Số liệu của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quản lý Trung ương (CIEM)

Văn hóa làng xã và triết lý phát triển

(TuanVietNam) - Ngày nay, nghe rất nhiều vĩ từ nói về văn hóa, ít ai thích chữ làng xóm quê mùa. Phải chăng những nét đẹp của nôi văn hóa làng xã bị bỏ qua, nhưng tính tiểu nông vẫn còn trong tư duy.

Một lần ra Hà Nội, thấy nhà cao tầng lắp ghép ở Thành Công, bố tôi thích lắm. Nhưng khi vào căn hộ trên tầng 4, cụ ngạc nhiên. Nhà anh cửa không ở chính giữa, không có ngưỡng cửa, hai gian thông thống, bàn thờ để đâu? - Bố cổ quá rồi, bây giờ ai làm thế.

Cụ thở dài, ngưỡng cửa để người ra vào phải cúi xuống, vừa không bị vấp nhưng cũng là cúi đầu bàn thờ tổ tiên để gian giữa. Anh đi xa quên hết rồi.

Mấy hôm nay, tầu xe bắt đầu chật chội, bận rộn hơn. Hàng triệu người hối hả về quê ăn Tết. Buồn thay những người không có nơi để về hay không thể thăm nơi cố hương. Trong số về làng, còn ai bước qua cái bậu cửa, nghiênh mình trước tổ tiên!

Từ thời xa xưa, làng xã là tổ chức cộng đồng khép kín. Đình làng thờ thành hoàng, tổ chức lễ hội. Lũy tre và cổng làng là điển hình của biên giới và cửa khẩu của “làng gia” với những luật lệ riêng.

Gia đình, dòng tộc cũng đóng góp phong phú thêm truyền thống làng xã. Về quê gặp ông trưởng tộc, tuổi còn rất trẻ nhưng già trẻ vẫn phải thưa gửi. Con cái ăn khoai sắn thay cơm nhưng nhà thờ họ, giỗ họ, mộ tổ phải to.

Sau lũy tre chứa đựng những điều tốt đẹp và cả bất cập. Mọi sự phát triển, tụt hậu, chiến thắng hay thất bại đều dựa vào truyền thống ấy. Gọi mỗi người Việt Nam là một trai làng cũng không ngoa. Vì quả thật, họ được sinh ra trong cái nôi bản sắc văn hóa làng xã đó. Phải chăng đó là triết lý cho phát triển một đất nước với 70%-80% nông dân.

Truyền thống làng xã thời chiến tranh và bao cấp

Trải qua gần nghìn năm Bắc thuộc, rồi mấy cuộc xâm lăng của gần đây, làng xã và lũy tre là pháo đài chống giặc, sàng lọc luôn cả văn hóa ngoại lai. Lời kêu gọi “cứu nước cứu nhà” đưa về từng làng xóm, “đóng cửa bảo nhau” đã vận động và đưa ra tiền tuyến hàng triệu thanh niên.

Hợp tác xã là một biến thể khác của kiến trúc làng xóm. Với tư duy làm chủ tập thể, nghĩa là ai cũng là chủ nhưng không ai muốn…làm. Nông dân ta vốn cần cù đi sớm về muộn nay được đi muộn về sớm. Bao nhiêu ruộng đất, trâu bò được cho vào chung. Đình làng, chùa chiền được đập đi và xây nhà kho đựng lúa, phá hỏng cái nôi văn hóa làng.

Mô hình HTX đã gây thảm họa vì khuyến khích thói quen “cha chung không ai khóc”. Bầu bán gây mất đoàn kết nghiêm trọng vì các dòng tộc thi nhau vận động để người của mình được vào ban chủ nhiệm.

Truyền thống làng xóm đem lại chiến thắng trong chiến tranh nhưng thất bại trong xây dựng một thời vì hàm lượng văn hóa làng xã trong những quyết định khác nhau.

Thời hội nhập và hệ lụy

Cũng may có đổi mới - hay còn gọi là sửa sai quá khứ. Người nông dân làm chủ đồng ruộng thực sự. Từ nước phải nhập lương thực, dân đói khát, ăn bo bo thay gạo, Việt Nam xuất khẩu gạo, đứng thứ 3 trên thế giới. Lũy tre giúp cho hạt gạo thành đô la.

Tham gia WTO, rồi mở cửa. Từ chỗ 80% dân sống dưới mức nghèo khổ nay còn 15%. Nhiều trai làng đã ra thành phố để lại miền quê phía sau. Và “tre làng” đang len lỏi mọc trong hành xử của dân chúng, trong trí thức và cả người lãnh đạo.

Thời thế đã đổi thay. Cổng làng là internet gateway. Đôi khi, khó mang “lệ làng tôi” ra tranh cãi với quốc tế với những khái niệm và giá trị chung của nhân loại về quyền con người, dân chủ, tự do thông tin, minh bạch hay công lý.

Phương Tây tôn trọng tính cá nhân trong mỗi con người. Phương Đông cho rằng cộng đồng quan trọng hơn. Người Việt trồng những bụi tre bao gồm rất nhiều cây đứng đan xen, cành rậm rịt và gai góc để bảo vệ làng xóm.

Phía sau lũy tre ấy cũng chứa đựng những tăm tối. Lệ làng cổ hủ, phong kiến hay tôn sùng vô thức. Lợi ích nhóm, làng anh, làng tôi, họ Nguyễn, họ Lê, để rồi tự dìm nhau. Tuyển con cháu vào cơ quan gây ra xung đột lợi ích. Kiến trúc đô thị hay hành xử công cộng được mang từ quê ra thành phố và tràn sang cả nước bạn. Những tăm tối là rào cản trong phát triển, cần được chiếu sáng.

Nguy cơ cao hơn cả là mỹ từ toàn cầu hóa có thể cuốn đi cả một đất nước, một nền văn hóa. Người ta chú trọng đến mở rộng thành phố, thêm nhà máy, khu công nghiệp, xây sân golf. Môi trường bị hủy hoại, rồi tài nguyên thiên nhiên, đất trồng trọt, làng mạc dễ bị mất vào một bàn tay núp dưới danh nghĩa hội nhập.

Thấy chuyện bẻ hoa gần đây, cô cháu viết mail, bức xúc trước chuyện người ta lên án người nhà quê một cách bừa bãi. Theo cháu, Chí Phèo bị đẩy ra khỏi cuộc sống cộng đồng làng xã, và chính cộng đồng đó – tự thân nó cũng đang bị rạn vỡ. Thế nên Chí mới phải chết trên ngưỡng cửa làm người. Dưới danh nghĩa phát triển, văn hóa làng xã đang bị lên án oan ức, bị đổ tội, bị quy trách nhiệm vì sự phát triển nửa chừng của văn hóa thành thị.

Lũy tre làng và triết lý phát triển

Đất nước đang đứng trước những thời khắc quyết định mà yếu tố văn hóa không thể tách rời và phải là cái nôi để phát triển.

Phía sau lũy tre Việt Nam là những tâm hồn yêu quê hương, gắn bó với đất nước, tình đoàn kết chòm xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, không quên cội nguồn. Tôn ty trật tự trong làng, dòng họ và gia đình, có trên, có dưới, một xã hội có thứ bậc. Rồi kiến trúc đình làng, ngôi nhà ở quê với ngưỡng cửa và bàn thờ. Những giá trị truyền thống là cội nguồn sức mạnh từ hàng ngàn năm nay.

Là quốc gia đồng nhất về sắc dân và văn hóa, người Nhật lấy truyền thống trên dưới, tôn ti trật tự và kỷ luật lao động cho phát triển. Gia đình là tổ ấm, vai trò nam nữ ấn định rõ ràng. Nam giới hướng ngoại (soto no), nữ giới hướng nội (uchi no). Cách cúi chào bằng cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc địa vị xã hội, một dấu hiệu để tỏ lộ sự kính trọng. Nhưng họ lại dung hòa được với nền dân chủ văn minh và tự do báo chí.

Với đất nước đa sắc tộc, người Mỹ lấy yếu tố cá nhân làm chủ đạo trong phát triển xã hội, dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập, có báo chí là “quyền lực thứ tư”, giám sát xã hội. Quyền con người được tôn trọng. Nam nữ bình đẳng, khác với truyền thống Nhật. Ngoài ra, sự phát triển của Hoa Kỳ dựa trên nền tảng giáo dục, gia đình và tôn trọng cá nhân. Họ dùng các nhát cắt rất rõ ràng để ra các định chế.

Người Nhật và người Mỹ đã bỏ chúng ta khoảng cách hàng trăm năm. Nhiều quốc gia khác cũng đang dùng văn hóa, truyền thống của mình để phát triển đất nước. Không thể theo người ta vì nôi văn hóa của họ rất khác. Mang truyền thống Trung hoa hay Thái lan áp đặt cho dân ta cũng thất bại. Chính sách đồng hóa của ngoại bang chưa bao giờ thành công ở đất nước này, lý tưởng lấy từ bên ngoài cũng dễ bị lũy tre chặn lại.

Nhiều nhà kinh tế hay chính trị thường quên đi giá trị của văn hóa khi ra các quyết định mà không hiểu rằng, văn hóa không những là di sản mà còn là tương lai của dân tộc. Nôi văn hóa làng xã sẽ đi theo suốt chặng đường phát triển. 80% là nông dân, 20% đang ở thành phố cũng do nông dân đẻ ra. Triết lý phát triển không thể quên yểu tố “nông dân” và cái đình làng.

Làm gì để những trai làng kia thành những công dân toàn cầu. Họ thắng giặc ngoại xâm, nhưng trong xây dựng lại chưa đủ tri thức dù lũy tre làng từ ngàn đời đã dậy cho họ tính ham học, vươn lên từ gian khó.

Người ta nói về thế hệ toàn cầu phải có tri thức giầu có, biết tiếng Anh, giỏi máy tính, hiểu văn hóa thế giới. Kể ra thì rất nhiều. Nhưng có khi nó rất đơn giản. Nếu nền giáo dục tạo ra thế hệ có tầm nhìn, độc lập suy nghĩ, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm thì trước mọi bài toán của cuộc đời, họ biết làm thế nào để tìm lối ra.

Ngày nay, nghe rất nhiều vĩ từ nói về văn hóa, ít ai thích chữ làng xóm quê mùa. Phải chăng những nét đẹp của nôi văn hóa làng xã bị bỏ qua, nhưng tính tiểu nông vẫn còn trong tư duy. Vì thế, người già còn thở dài, lo đám con cháu bước qua bậu cửa, quên nghiêng mình trước tổ tiên. Những trai làng chưa thể bước ra ngoài với thế giới.

Hiệu Minh