
 Milton Friedman là ai?
  Paul Krugman
  
         Lời toà soạn:  Milton Friedman (sinh năm    1912, Nobel 1976), người Mỹ, một trong những nhà kinh tế có ảnh hưởng    nhất trong nửa sau của thế kỷ 20, vừa từ trần ngày 16 tháng 11 năm 2006.    Để giới thiệu Friedman với bạn đọc, Thời Đại Mới xin dịch bài sau đây    của Paul Krugman, một nhà kinh tế ở thế hệ sau Friedman, và tuy không là    một đồ đệ của Friedman, đã thẩm định Friedman một cách khá khách quan,    chính xác và đầy đủ. 
  
 
 1.
  Lịch sử kinh tế học thế kỷ 20 có chút gì  đó giống với lịch sử Cơ-đốc giáo thế kỷ 16. Mãi cho tới khi John Maynard Keynes  xuất bản tác phẩm Lý thuyết tổng quát về lao động, lãi suất và tiền tệ  vào năm 1936, kinh tế học - ít ra là trong các nước nói tiếng Anh – hoàn toàn bị  tư tưởng chính thống về thị trường tự do thống trị. Những tư tưởng khác biệt đôi  khi cũng xuất hiện, nhưng luôn bị lấn át. Kinh tế học cổ điển, theo như Keynes  viết năm 1936, “thống trị hoàn toàn nước Anh giống hệt như Tòa án Dị giáo thống  trị Tây Ban Nha.” Và kinh tế học cổ điển tuyên bố rằng lời giải cho hầu hết các  vấn đề là cứ để mặc mọi việc dưới các tác động của cung và cầu.
  Nhưng kinh tế học cổ điển đã không có  lời giải thích cũng như đưa ra được biện pháp giải quyết cuộc Đại Suy thoái. Đến  giữa những năm 30, những thách thức đặt ra với kinh tế học chính thống không còn  kìm nén lâu hơn được nữa. Keynes đã đóng vai trò của Martin Luther, mang đến cho  những tư tưởng dị biệt sự nghiêm cẩn về mặt học thuật cần thiết để chúng được  tôn trọng. Mặc dù Keynes không phải là một người thiên tả - ông xuất hiện để bảo  vệ chủ nghĩa tư bản chứ không phải chôn vùi nó – lý thuyết của ông nói rằng  không thể trông đợi vào thị trường tự do để cung cấp đầy đủ việc làm, từ đó tạo  ra cơ sở mới cho sự can thiệp sâu rộng hơn của chính phủ vào nền kinh tế.
  Học thuyết Keynes là một cuộc cải cách  lớn lao của kinh tế học. Đương nhiên, nó được tiếp nối bằng một cuộc chống cải  cách. Một số nhà kinh tế đã đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi kinh tế  học cổ điển trong giai đoạn từ năm 1950 đến 2000, nhưng không ai có ảnh hưởng  như Milton Friedman. Nếu Keynes là Luther, Friedman là thánh Ignatius xứ Loyola,  người đã sáng lập ra dòng Tên (Jesuits). Và giống như những tín đồ Jesuits,  những người theo chân Friedman đã hành động với cách thức của một đội quân thành  tín có kỷ luật, buộc ý tưởng dị biệt của Keynes phải thối lui trên nhiều mặt  nhưng không lùi hẳn. Đến cuối thế kỷ trước, kinh tế học cổ điển đã quay trở lại  dù không lấy lại hoàn toàn vị trí thống trị trước đây của nó, và Friedman xứng  đáng là người có công lớn.
  Tôi không muốn đi quá xa trong sự so  sánh với tôn giáo. Lý thuyết kinh tế chí ít cũng mong đạt đến tính khoa học chứ  không phải là thần học; nó quan tâm đến trần gian chứ không phải thiên đường. Lý  thuyết của Keynes lúc đầu thắng thế vì đã làm tốt hơn kinh tế học chính thống cổ  điển rất nhiều trong việc nhận biết thế giới xung quanh, và chỉ trích của  Friedman với Keynes có tầm ảnh hưởng lớn như thế bởi vì ông đã nhận diện chính  xác những điểm yếu của học thuyết Keynes. Và xin nói cho rõ: cho dù tiểu luận  này có chỉ ra rằng Friedman đã sai lầm trong vài vấn đề, và đôi lúc dường như  thiếu thành thật với người đọc của ông, tôi vẫn coi ông là nhà kinh tế vĩ đại và  là con người vĩ đại. 
  2.
  Milton Friedman đã đóng ba vai trò trong  đời sống tri thức thế kỷ 20. Một Friedman nhà kinh tế của các nhà kinh tế, người đã viết những phân tích mang tính kỹ thuật và ít nhiều  không mang tính chính trị về hành vi của người tiêu dùng và lạm phát. Một  Friedman người rao bán chính sách, người đã tham gia vận động cho chính sách  trọng tiền trong nhiều thập kỷ - cuối cùng cũng chứng kiến Cục dự trữ Liên bang  và Ngân hàng Trung ương Anh đã làm theo học thuyết của ông vào cuối thập niên  70, rồi từ bỏ một vài năm sau đó vì nó không thể vận hành trơn tru. Cuối cùng,  là một Friedman nhà tư tưởng, người truyền bá vĩ đại học thuyết về thị trường tự  do.
  Con người đó đã đóng cùng lúc tất cả  những vai trò trên? Đúng và không. Cả ba vai trò đều in đậm lòng tin của  Friedman vào những chân lý kinh điển của các học thuyết kinh tế thị trường tự  do. Hơn nữa, sự thành công của Friedman trong vai trò một người quảng bá và  tuyên truyền phần nào dựa vào danh tiếng xứng đáng của ông với tư cách một lý  thuyết gia kinh tế uyên thâm. Nhưng có một sự khác biệt quan trọng giữa sự chặt  chẽ trong công trình của ông với tư cách một nhà kinh tế học chuyên sâu và sự dễ  dãi, đôi lúc đáng ngờ về mặt logic trong những phát biểu của ông với tư cách một  trí thức của công luận (public intellectual). Trong khi công trình nghiên  cứu lý thuyết của Friedman được hầu hết các kinh tế gia chuyên nghiệp ngưỡng mộ,  những phát biểu về chính sách của ông và nhất là hoạt động truyền bá của ông tạo  ra nhiều ý kiến ngược chiều. Và phải nói rằng có vài điều đáng bàn về sự trung  thực về mặt tri thức khi ông phát biểu trước công chúng.
  Nhưng hãy tạm đặt sang một bên những  điểm còn hồ nghi, và hãy nói về nhà kinh tế lý thuyết Friedman. Trong gần hai  thế kỷ qua, khái niệm Homo economicus (Con người kinh tế) đã chiếm ưu thế  trong tư duy kinh tế học. Con người kinh tế giả thiết biết mình  muốn gì; sự ưa thích của anh ta có thể được biểu diễn toán học thông qua “hàm  lợi ích” (utility function). Và những sự lựa chọn của anh ta được dẫn hướng bởi  những tính toán hợp lý về việc làm thế nào tối đa hóa hàm thỏa  dụng nói trên: những người tiêu dùng sẽ phải quyết định chọn giữa đồ ăn khô làm  từ ngô (cornflakes) và từ lúa mì (shredded wheat) cũng như nhà đầu tư sẽ phải  quyết định lựa chọn giữa cổ phiếu và trái phiếu, những quyết định đó được giả  thiết trên cơ sở so sánh “lợi ích biên”, hay lợi ích người mua sẽ có thêm được  từ việc lấy thêm một lượng nhỏ trong những khả năng sẵn có.
  Thật dễ cười nhạo câu chuyện này. Không  ai, ngay cả những nhà kinh tế đoạt giải Nobel, thực tình quyết định theo cách  đó. Tuy vậy, hầu hết các nhà kinh tế - trong đó có cả tôi – vẫn thấy rằng khái  niệm Con người Kinh tế là hữu dụng, với sự chấp nhận rằng anh ta là đại  diện lý tưởng cho những gì chúng ta nghĩ đang diễn ra trong thực tế. Con người  có những ưa thích, ngay cả nếu những ưa thích đó thực sự không thể biểu diễn  bằng một hàm lợi ích chính xác; họ thường có những quyết định hợp lý, ngay cả  khi họ không tối đa hóa lợi ích theo nghĩa đen. Bạn có thể thắc mắc, tại sao  không biểu diễn con người theo cách họ hành động trong thế giới thực? Câu trả  lời là, sự trừu tượng hóa, sự đơn giản hóa có mục đích là cách duy nhất chúng ta  có thể áp đặt một thứ trật tự tri thức vào sự phức tạp của đời sống kinh tế. Và  giả thiết về hành vi hợp lý là một sự đơn giản hóa đặc biệt hiệu quả.  
   Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là nên  đi xa đến đâu. Keynes đã không tấn công toàn diện vào  Con người Kinh tế, nhưng ông thường viện đến lý luận về tâm lý hợp lý hơn là  phân tích cẩn thận một người ra quyết định hợp lý sẽ làm gì. Những quyết định  kinh doanh do “tâm lý bầy đàn” dẫn hướng, những quyết định của người tiêu dùng  tuân theo xu hướng tâm lý sẽ chi tiêu thêm một phần thu nhập tăng lên chứ không  phải tất cả, điều đình tiền lương dựa trên cảm giác về sự công bằng, vân vân.
  Nhưng giảm nhẹ vai trò của khái niệm  Con người Kinh tế đến mức đó có thực sự là một ý tưởng hay? Milton Friedman  cho là không khi lập luận trong bài viết “Phương pháp luận kinh tế học thực  chứng” vào năm 1953 rằng không nên đánh giá các lý thuyết kinh tế dựa vào khả  năng giải thích hợp lý thực tế bằng tâm lý học mà phải đánh giá chúng bằng khả  năng dự báo được các hành vi. Và hai thành quả vĩ đại nhất của Friedman trong  vai trò là nhà kinh tế lý thuyết phát sinh từ việc ứng dụng giả thuyết về hành  vi hợp lý vào các câu hỏi mà các nhà kinh tế khác đã cho rằng không giải quyết  được.
  Trong cuốn sách năm 1957 của ông, Lý  thuyết về hàm tiêu dùng (A Theory of the Consumption Function) - một tựa đề  không mấy dễ “nuốt” với số đông, nhưng là một chủ đề quan trọng – Friedman lập  luận rằng cách tốt nhất để hiểu các hành vi tiết kiệm và chi tiêu không phải là  viện đến việc lý luận lỏng lẻo về tâm lý, như Keynes đã làm, mà tốt hơn là xem  xét các cá nhân lên kế hoạch hợp lý để tiêu dùng tài sản của họ như thế nào  trong đời. Ý tưởng này không nhất thiết chống lại  học thuyết Keynes. Trên thực tế, Franco Modigliani, nhà kinh tế lớn thuộc trường  phái Keynes, thực hiện một nghiên cứu tương tự đồng thời và độc lập, cũng đưa ra  lập luận tương tự - thậm chí với lối tư duy còn thận trọng hơn về hành vi hợp lý  trong công trình với Albert Ando. Nhưng nó đã đánh dấu sự quay trở lại của lối  tư duy theo kinh tế học cổ điển – và đã đưa đến kết quả. Không đi vào chi tiết  để tránh sa vào mặt kỹ thuật, nhưng có thể nói “giả thiết thu nhập thường trực”  (permanent income hypothesis)của Friedman và “mô hình vòng đời” (life cycle  model) của Ando và Modigliani đã giải quyết một số nghịch lý hiển nhiên trong  mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng, và cho đến nay vẫn là cơ sở cho những  suy nghĩ của nhà kinh tế về chi tiêu và tiết kiệm.
  Công trình của Friedman về hành vi tiêu  dùng, chỉ từng đó thôi cũng đã làm nên danh tiếng học thuật của ông. Tuy nhiên,  một thành quả khác thậm chí còn lớn hơn là việc ông ứng dụng Con người kinh  tế trong lý thuyết để giải thích lạm phát. Năm 1958 nhà kinh tế sinh tại New  Zealand A. W. Phillips đã chỉ ra rằng có một tương quan mang tính lịch sử giữa  thất nghiệp và lạm phát: tỷ lệ lạm phát cao có liên hệ với tỷ lệ thất nghiệp  thấp và ngược lại. Trong một thời gian, các nhà kinh tế đã xem mối quan hệ này  là đáng tin cậy và bền vững. Điều đó dẫn đến cuộc thảo luận nghiêm túc về những  điểm nào trên “đường cong Phillips” chính phủ nên chọn. Chẳng hạn, nước Mỹ có  nên chấp nhận một tỷ lệ lạm phát cao để đạt được tỷ lệ thất nghiệp thấp?
  Tuy nhiên, năm 1967, Friedman đã đọc  diễn văn chủ tịch trước Hội Kinh tế Mỹ, trong đó ông lập luận rằng mối tương  quan giữa lạm phát và thất nghiệp, dù dữ liệu có thể hiện điều đó, cũng không  đại diện cho một sự đánh đổi thực sự, ít ra là trong dài hạn. Ông tuyên bố:  “Luôn luôn có một sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp, nhưng không  phải sự đánh đổi lâu dài.” Nói cách khác, nếu các nhà ra chính sách thử giữ tỉ  lệ thất nghiệp thấp nhờ vào một chính sách làm cho lạm phát cao lên, họ sẽ chỉ  thành công trong ngắn hạn. Theo Friedman, thất nghiệp sau rốt sẽ lại tăng, ngay  cả khi lạm phát duy trì ở mức cao. Nói cách khác, nền kinh tế sẽ trải qua thời  kỳ mà sau này Paul Samuelson sẽ đặt tên là suy lạm phát ( stagflation).
  Friedman đi đến kết luận này như thế  nào? (Edmund S. Phelps, người đã giành giải Nobel Kinh tế năm 2006, đồng thời và  độc lập đã đi đến cùng một kết quả.) Cũng như trong công trình nghiên cứu của  ông về hành vi tiêu dùng, Friedman đã áp dụng ý tưởng về hành vi hợp lý. Ông lập  luận rằng, sau một thời kỳ lạm phát kéo dài, người ta sẽ đưa kỳ vọng về lạm phát  trong tương lai vào quyết định của họ, làm vô hiệu hóa bất kỳ hiệu quả tích cực  nào của lạm phát đối với  việc làm. Chẳng hạn, một lý do lạm phát có thể dẫn đến  việc làm cao hơn là do thuê nhiều công nhân sẽ trở nên có lợi hơn khi giá tăng  nhanh hơn lương lao động. Nhưng một khi người lao động hiểu rằng sức mua của  lương họ sẽ bị giảm vì lạm phát, họ sẽ đòi trước những thỏa thuận lương cao hơn,  để cho lương tăng kịp với giá. Kết quả là, sau khi tình trạng lạm phát diễn ra  một thời gian, nó sẽ không còn đem lại sức tăng việc làm như ban đầu nữa. Thực  tế, tỉ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên nếu tình trạng lạm phát diễn ra không như mong  đợi.
  Vào lúc Friedman và Phelps đưa ra những  ý tưởng của họ, Mỹ chưa có nhiều kinh nghiệm về tình trạng lạm phát kéo dài. Nên  điều này thực sự có ý nghĩa dự báo hơn là cố gắng giải thích những gì diễn ra  trong quá khứ. Tuy thế, tình trạng lạm phát dai dẳng những năm 1970 đã kiểm tra  giả thiết của Friedman-Phelps. Đúng thế, tương quan lịch sử giữa lạm phát và tỉ  lệ thất nghiệp bị phá vỡ đúng theo cách mà Friedman và Phelps dự đoán: vào năm  1970, khi tỉ lệ lạm phát tăng đến hai con số, tỷ lệ thất nghiệp lên cao, còn cao  hơn cả những năm giá cả ổn định của thập niên 1950 và 1960. Cuối cùng lạm phát  được kiểm soát vào những năm 1980, nhưng chỉ sau một thời kỳ nhọc nhằn với tỉ lệ  thất nghiệp cực cao, tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy thoái.
  Với việc dự đoán trước tình trạng suy  lạm phát, Friedman và Phelps đã đạt được một thành tựu lớn lao của kinh tế học  thời hậu chiến. Thành tựu này, hơn bất kỳ kết quả nào khác, xác nhận địa vị của  Milton Friedman như một nhà kinh tế vĩ đại của các nhà kinh tế, bất kể những gì  người ta có thể nghĩ về các vai trò khác của ông.
  Một lưu ý thú vị: cho dẫu Friedman đã  đạt được những bước tiến vĩ đại trong kinh tế vĩ mô với việc áp dụng khái niệm  về cá nhân hành động hợp lý, ông cũng biết đâu là điểm dừng. Thập niên 1970, vài  nhà kinh tế đã đẩy những phân tích về lạm phát của Friedman đi xa hơn nữa, lập  luận rằng không có sự đánh đổi nào đáng kể giữa lạm phát và thất nghiệp ngay cả  trong ngắn hạn, bởi vì người dân sẽ tiên liệu các hành động của chính phủ và  dùng tiên liệu đó, cũng như kinh nghiệm quá khứ, vào trong việc thiết lập giá và  thương lượng tiền lương. Học thuyết này, được biết đến như “kỳ vọng hợp lý”, lan  rộng ra trong giới kinh tế học học thuật. Nhưng Friedman chưa bao giờ thừa nhận  điều này. Ý thức thực tế của ông đã cảnh báo rằng điều này đưa ý tưởng về Con người Kinh tế đi quá xa. Và nó cũng đã được chứng minh.  Bài thuyết trình của ông vào năm 1967 đã đứng vững qua sự kiểm tra của thời  gian, trong khi những quan điểm cực đoan hơn được các nhà lý thuyết về kỳ vọng  hợp lý đề xuất về vào thập kỷ 70 và 80 thì không.
  3.
 “Tất cả mọi thứ nhắc nhở  Milton nhớ về cung tiền. Ừ, thì tất cả mọi thứ nhắc tôi nhớ về sex nhưng tôi  không đưa nó vào bài viết”  - Robert Solow, đại học MIT đã viết như vậy năm 1966. Trong nhiều thập kỷ, trong  con mắt của công chúng, hình ảnh và tên tuổi của Milton Friedman được biết đến  rộng rãi với những tuyên bố của ông về chính sách tiền tệ và sản phẩm sáng tạo  của ông được biết dưới tên gọi học thuyết trọng tiền. Khá là ngạc nhiên khi nhận  ra rằng học thuyết trọng tiền hiện nay được nhìn nhận rộng rãi như một sự thất  bại, và một vài trong những điều Friedman nói về “tiền” và chính sách tiền tệ -  không giống như những gì ông ta nói về tiêu dùng và lạm phát – dường như sai  lạc, và có lẽ sai lạc có chủ tâm.
  Để hiểu về chủ nghĩa trọng tiền, điều  đầu tiên bạn cần biết là từ “tiền” trong ngôn ngữ kinh tế không hẳn mang nghĩa  giống như trong tiếng Anh bình thường. Khi các nhà kinh tế nói về cung tiền, họ  không nghĩ đến của cải trong nghĩa thông thường. Họ chỉ nghĩ đến những dạng của  cải có thể sử dụng ít nhiều trực tiếp để mua một cái gì đó. Tiền lưu thông -  những mảnh giấy mầu xanh với hình của những ông tổng thống đã chết in trên đó –  là tiền, tài khoản trong ngân hàng mà bạn có thể viết séc cũng là tiền. Nhưng cổ  phiếu, trái phiếu và bất động sản không phải là tiền, bởi vì chúng phải được  chuyển đổi thành tiền mặt hoặc tài khoản ngân hàng trước khi có thể sử dụng được  để chi trả.
  Nếu nguồn cung tiền chỉ bao gồm tiền tệ  đang lưu thông, nó sẽ nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của chính phủ - hay chính  xác hơn là của Cục Dự trữ Liên bang (CDTLB), một cơ quan chuyên trách tiền tệ,  tương đương Ngân hàng Trung ương ở nhiều nước, là một thể chế phần nào đó tách  biệt với chính phủ. Thực tế, nguồn cung tiền cũng bao gồm tiền gửi ngân hàng làm  cho thực tại trở nên rắc rối hơn. Ngân hàng Trung ương chỉ trực tiếp kiểm soát  “cơ số tiền tệ” (monetary base) - tổng của các loại tiền mặt đang lưu thông,  tiền các ngân hàng lưu trữ trong các tầng hầm và tiền của các ngân hàng gửi Cục  Dự trữ – nhưng không gồm những khoản tiền mà người dân gửi trong ngân hàng. Tuy  nhiên, trong hoàn cảnh bình thường, CDTLB kiểm soát trực tiếp cơ số tiền tệ là  đủ để mang lại sự kiểm soát có hiệu quả toàn bộ lượng cung tiền. 
  Trước Keynes, các nhà kinh tế coi việc  điều chỉnh cung tiền là một công cụ cơ bản để quản lý kinh tế. Nhưng Keynes lập  luận rằng trong điều kiện suy thoái, khi lãi suất rất thấp, thay đổi trong lượng  cung tiền có tác động rất nhỏ đến nền kinh tế. Logic của vấn đề như sau: Khi lãi  suất là 4 đến 5%, không ai muốn ngồi trên đống tiền mặt nhàn rỗi. Nhưng trong  tình trạng giống như năm 1935, khi lãi suất kỳ hạn 3 tháng của các loại trái  phiếu của Bộ Tài chính chỉ có 0.14%, có quá ít lợi ích để chấp nhận việc sử dụng  đồng tiền rủi ro như thế. Ngân hàng Trung ương có thể kích thích nền kinh tế  bằng cách in thêm lượng lớn tiền, nhưng nếu lãi suất đã rất thấp rồi thì tiền  mặt có thêm vào có lẽ cũng sẽ héo úa trong nhà băng hay trong chỗ cất giấu của  người dân. Do vậy Keynes lập luận rằng chính sách tiền tệ - dựa vào việc thay  đổi lượng cung tiền để điều khiển nền kinh tế - sẽ không hiệu quả. Và đó là lý  do Keynes và những người tiếp bước ông tin rằng chính sách tài khóa - đặc biệt,  một sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ - là công cụ thiết yếu để kéo đất nước  ra khỏi cuộc Đại Suy thoái.
  Tại sao điều này lại quan trọng? Chính  sách tiền tệ là sự can thiệp có tính kỹ trị ở mức độ cao, gần như phi chính trị  của chính phủ vào nền kinh tế. Nếu Cục dự trữ Liên bang (CDTLB)  quyết định gia  tăng lượng cung tiền, nó chỉ cần mua lại một số loại trái phiếu chính phủ từ  ngân hàng tư nhân, trả tiền mua trái phiếu bằng cách ghi thêm vào cột "có" trong  các tài khoản dự trữ của ngân hàng - thực tế, điều duy nhất CDTLB phải làm là in  thêm cơ số tiền mặt. Ngược lại, chính sách tài khóa đòi hỏi chính phủ phải can  thiệp sâu hơn vào nền kinh tế, thường theo các phương cách nặng tính toán đánh giá "chủ quan" (value-laden way):  nếu các nhà chính trị quyết định phát triển những công trình công cộng để tạo ra  việc làm, họ cần quyết định sẽ xây gì và ở đâu. Các nhà kinh tế ủng hộ khuynh  hướng thị trường tự do thì thiên về tin tưởng rằng chính sách tiền tệ là tất cả  những gì cần đến; còn những người mong muốn vai trò tích cực hơn của chính phủ  thì có khuynh hướng tin rằng chính sách tài khóa là thiết yếu.
  Tư duy kinh tế học sau thành tựu của  cuộc cách mạng học thuyết Keynes – được phản ánh, chẳng hạn trong những ấn bản  đầu tiên của cuốn sách giáo khoa kinh điển của Paul Samuelson (Kinh tế học – ND)  – đặt ưu tiên cho chính sách tài khóa, trong khi chính sách tiền tệ được đặt  sang một bên. Như Friedman nói trong bài thuyết trình năm 1967 của ông trước Hội  Kinh tế Mỹ:
     Sự chấp nhận rộng rãi các quan điểm  [của học thuyết Keynes] trong giới nghiên cứu kinh tế có nghĩa là chính sách  tiền tệ, sau gần hai thập kỷ được tin tưởng rộng rãi, và chỉ  với một chút nghi  ngờ của những tay phản động, đã trở nên lỗi thời trước những kiến thức kinh tế  học mới. Tiền không có vai trò quan trọng.
 
  Cho dù kết luận trên có thể là sự thổi  phồng quá mức, chính sách tiền tệ chỉ nhận được sự quan tâm tương đối thấp trong  suốt thập kỷ 1940 và 1950. Song Friedman đã thánh chiến cho quan điểm là tiền  cũng đóng vai trò quan trọng, mà đỉnh điểm là trong ấn bản năm 1963 của cuốn  Lịch sử tiền tệ của Mỹ, 1867-1960 (A Monetary History of the United States,  1867-1960) viết chung với Anna Schwartz.
  Cho dù Lịch sử tiền tệ là một  công trình có phạm vi kiến thức rộng với sự uyên bác lạ thường, bao trùm một thế  kỷ phát triển tiền tệ, vấn đề gây tranh cãi và có tác động lớn nhất là phần đề  cập đến cuộc Đại Suy thoái. Friedman và Schwartz đã cho rằng họ đã bác bỏ được  cái nhìn nhận bi quan của Keynes về tác động của chính sách tiền tệ trong tình  trạng suy thoái. Họ tuyên bố: “Sự co rút của nền kinh tế trên thực tế là một  minh chứng đầy bi kịch cho thấy tầm quan trọng của sức mạnh tiền tệ”
  Nhưng qua câu này ý họ muốn nói điều gì?  Ngay từ đầu, luận điểm của Friedman-Schwartz dường như có vẻ loạng choạng. Và  càng về sau, cách trình bày của Friedman càng thiếu gọt giũa, không tinh tế, và  thậm chí bắt đầu dường như – không có cách diễn đạt nào khác - thiếu trung thực  về mặt tri thức.
  Trong việc giải thích nguyên nhân của  cuộc Đại Suy thoái, việc phân biệt giữa cơ số tiền tệ (tiền lưu thông cộng với  dự trữ ngân hàng), mà CDTLB kiểm soát trực tiếp, và lượng cung tiền (tiền lưu  thông cộng với các khoản tiền gửi) là điều quyết định. Cơ số tiền tệ đã tăng trong thời kỳ những năm đầu tiên của cuộc Đại Suy  thoái, từ mức trung bình 6.05 tỉ USD vào năm 1929 đến mức trung bình 7.02 tỉ USD  vào năm1933. Nhưng lượng cung tiền lại giảm mạnh, từ 26.6 tỉ USD xuống 19.9 tỉ  USD. Các xu hướng trái ngược này phản ánh ảnh hưởng từ làn sóng sụp đổ của các  ngân hàng trong năm 1930-1931: khi công chúng mất lòng tin vào các ngân hàng,  người ta bắt đầu giữ lại tiền mặt để bảo toàn tài sản của mình hơn là gửi vào  ngân hàng, và những ngân hàng còn tồn tại bắt đầu giữ lại những lượng lớn tiền  mặt chứ không cho vay ra ngoài, để ngăn ngừa rủi ro. Kết quả là hoạt động cho vay giảm, kéo theo việc giảm chi tiêu so với  tình huống bình thường nếu như công chúng vẫn tiếp tục gởi tiền vào ngân hàng và  ngân hàng vẫn tiếp tục dùng tiền gởi cho doanh nghiệp vay. Do sự suy sụp của  hoạt động chi tiêu là nguyên nhân gần đúng nhất làm xảy ra Suy thoái, việc cả cá  nhân và ngân hàng bỗng nhiên mong muốn nắm giữ tiền mặt nhiều hơn rõ ràng đã làm  cho suy thoái tồi tệ hơn.
  Friedman và Schwartz tuyên bố rằng việc  giảm cung tiền đã biến một đợt sụt giảm bình thường thành một cuộc suy thoái thê  thảm, bản thân nhận định này là một luận điểm đáng ngờ. Nhưng thậm chí nếu chúng  ta thừa nhận luận điểm này, chúng ta vẫn sẽ phải đặt ra câu hỏi liệu CDTLB, dù  cuối cùng cũng đã tăng cơ số tiền tệ lên, có thể bị coi là nguyên nhân làm giảm  lượng cung tiền nói chung không. Ít nhất vào lúc  đầu, Friedman và Schwartz đã không tuyên bố điều này. Thay vào đó, họ tuyên bố rằng CDTLB đã có thể ngăn ngừa sự sụt giảm lượng  cung tiền, cụ thể là có thể cứu vãn sự sụp đổ của các ngân hàng trong thời kỳ  khủng hoảng 1930-1931. Nếu CDTLB nhanh chóng tăng lượng tiền cho các ngân hàng  vay khi chúng gặp tình hình xấu, hành động này có thể đã ngăn chặn được làn sóng  sụp đổ của các ngân hàng, đồng thời có thể loại trừ cả các quyết định giữ tiền  mặt lại thay vì gửi vào ngân hàng của công chúng, và loại trừ ý muốn của các  ngân hàng còn tồn tại cất giữ tiền gửi trong hầm thay vì cho doanh nghiệp vay.  Đến lượt nó, việc này có thể đã ngăn chặn được tình trạng tồi tệ nhất của cuộc  Đại Suy thoái.
  Ở đây, dẫn ra một sự so sánh có lẽ có  ích. Giả sử rằng dịch cúm bùng phát, và các phân tích sau đó cho thấy các hành  động thích hợp của Các Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch (CDC) lẽ ra đã có thể ngăn  ngừa được bệnh dịch. Có vẻ là hợp lý khi khiển trách các cơ quan chính phủ đã  thất bại trong việc thực thi những biện pháp thích hợp. Nhưng sẽ là suy diễn quá  xa nếu nói rằng chính phủ đã gây ra bệnh dịch, hay nếu sử dụng thất bại của CDC  như một minh họa của sự ưu việt của thị trường tự do so với chính phủ chuyên can  thiệp.
  Tuy thế nhiều nhà kinh tế, và số đông  hơn là độc giả không chuyên, đã lấy đánh giá của Friedman và Schwartz để nghĩ  rằng chính CDTLB gây ra Đại Suy thoái - rằng Đại Suy thoái theo nghĩa nào đó  minh chứng cho tai họa từ chính sách can thiệp quá đáng của chính phủ. Và trong những năm sau đó, như tôi đã nói, khẳng định của Friedman trở  nên thô bạo hơn, như thể đổ thêm dầu vào lửa.  Trong bài diễn văn năm 1967 ông tuyên bố rằng “các cơ quan chức năng tiền tệ của  Mỹ đã theo đuổi các chính sách gây giảm phát“, và rằng lượng cung tiền giảm “do  Hệ thống Dự trữ Liên bang đã bắt buộc hoặc cho phép giảm bớt mạnh cơ số tiền tệ, do nó đã không hoàn thành trách nhiệm được giao“ - một sự quả quyết kỳ quặc khi nhớ rằng cơ  số tiền tệ, như chúng ta đã thấy, thực tế tăng khi lượng cung tiền đang giảm.  (Friedman có lẽ đã vin vào một số trường hợp trong giai đoạn này khi cơ số tiền  tệ giảm nhẹ trong những giai đoạn ngắn, nhưng cho dù như thế đi nữa, tuyên bố  của ông vẫn gây ra sự hiểu sai rất lớn, đó là nói theo nghĩa tốt nhất.)
  Vào năm 1976, Friedman nói với độc giả  của Newsweek rằng “sự thật cơ bản là cuộc Đại Suy thoái là do sự quản lý yếu kém  của chính phủ gây ra ”, một tuyên bố mà những độc giả của ông chắc chắn sẽ hiểu  thành là Suy thoái có lẽ đã không xảy ra nếu như chính phủ đã không can thiệp gì  hết. Thật ra những gì Friedman và Schwartz thực sự muốn nói phải là chính phủ lẽ  ra cần can thiệp tích cực hơn, chứ không phải ngược lại. 
  Tại sao những cuộc tranh luận trong lịch  sử về vai trò của chính sách tiền tệ những năm 1930 lại có ý nghĩa quan trọng  đến như vậy trong những năm 1960. Một phần bởi vì nó củng cố thêm chương trình  hành động rộng lớn hơn nhằm chống chính phủ của Friedman; điều này sẽ được nói  kỹ hơn bên dưới. Nhưng trực tiếp hơn là nhằm củng cố việc quảng bá chủ nghĩa  trọng tiền của Friedman. Theo học thuyết này, CDTLB nên giữ lượng cung tiền tăng  đều, tỉ lệ tăng thấp, ví dụ khoảng 3% mỗi năm – và không được đi  chệch khỏi mục tiêu này, bất kể có điều gì xảy ra với nền kinh tế. Ý tưởng  này cơ bản là đặt chính sách tiền tệ vào tình trạng tự động điều khiển, loại bỏ  bất kỳ sự suy xét thận trọng nào về nhiệm vụ của quan chức chính phủ.
  Quan điểm về chủ nghĩa trọng tiền của  Friedman một phần mang tính kinh tế và một phần mang tính chính trị. Việc tăng  đều đặn lượng cung tiền, ông lập luận, sẽ dẫn đến một nền kinh tế ổn định tương  đối. Ông chưa bao giờ tuyên bố rằng làm theo nguyên tắc của ông sẽ loại bỏ tất  cả các cuộc suy thoái, nhưng ông đã lập luận rằng sự lên xuống trong lộ trình  tăng trưởng của nền kinh tế sẽ nhỏ và có thể vượt qua – do vậy mới có sự quả  quyết rằng Đại Suy thoái đã không xảy ra nếu CDTLB tuân theo các quy tắc của  chính sách trọng tiền. Và đi cùng với niềm tin có dè dặt vào khả năng ổn định  của nền kinh tế khi tuân theo các quy luật trọng tiền, là sự khinh thường thiếu  dè dặt mà Friedman dành cho khả năng của các quan chức CDTLB nếu được giao phó  việc cân nhắc hành động. Chứng cớ đầu tiên cho sự không đáng tin cậy vào CDTLB  là sự khởi đầu của cuộc Đại Suy thoái, nhưng Friedman có thể chỉ ra nhiều ví dụ  khác về các chính sách sai đường. “Quy luật tiền  tệ”, ông đã viết vào năm 1972, “sẽ bảo vệ chính sách tiền tệ khỏi sự chuyên  quyền của một nhóm ít người không bị cử tri kiểm soát và khỏi những áp lực ngắn  hạn của chính trị đảng phái”.
  Chủ nghĩa trọng tiền có một ảnh hưởng  mạnh trong các cuộc tranh luận về kinh tế học trong khoảng 3 thập kỷ sau khi  Friedman lần đầu tiên đề ra học thuyết này trong cuốn sách của ông xuất bản năm  1959, Một Chương trình để Ổn định Tiền tệ (A Program for Monetary Stability).  Tuy nhiên ngày nay nó là cái bóng mờ của chính nó trước đó, bởi hai nguyên nhân  chính.
  Thứ nhất, khi Mỹ và Anh thử đưa học  thuyết trọng tiền vào thực tế cuối năm 1970, cả hai đều đã thu được những kết  quả tệ hại: ở mỗi nước việc tăng đều đặn lượng cung tiền đều không thể ngăn ngừa  tình trạng suy thoái khốc liệt. Cục dự trữ Liên bang (CDTLB) chính thức đề ra  những mục tiêu tiền tệ kiểu Friedman vào năm 1979, nhưng thực tế đã từ bỏ chúng  vào năm 1982 khi tỉ lệ thất nghiệp lên đến 2 con số. Việc từ bỏ này được thực  hiện chính thức vào năm 1984, và suốt từ đó CDTLB đã tiến hành chính những biện  pháp tinh chỉnh tùy nghi mà Friedman đã chỉ trích. Chẳng hạn, CDTLB phản ứng với  tình trạng suy thoái năm 2001 bằng cách cắt giảm lãi suất và cho phép lượng cung  tiền tăng với những tỉ lệ mà đôi lúc vượt quá 10% mỗi năm. Một khi CDTLB tin  rằng sự phục hồi đã vững chắc, nó đảo ngược quá trình này, tăng lãi suất và cho  phép mức tăng lượng cung tiền trở về số không.
  Thứ hai, từ đầu những năm 1980, sự thành  công tương đối của CDTLB và các cơ quan tương đương của những nước khác đã làm  xói mòn hình ảnh mà Friedman muốn dùng để miêu tả các quan chức Ngân hàng Trung  ương như người vụng về không thể cải tạo được. Lạm phát duy trì ở mức thấp, suy  thoái – ngoại trừ Nhật Bản, sẽ được bàn thêm ở dưới – tương đối ngắn và không có  ảnh hưởng sâu rộng. Và tất cả điều này đã xảy ra bất chấp sự thay đổi thất  thường của lượng cung tiền mà những nhà kinh tế trọng tiền đã sợ, và dẫn họ -  trong đó có cả Friedman - đến dự báo về những thảm họa không xảy ra. Khi David  Warsh của tờ The Boston Globe chỉ ra năm 1992, “Friedman đã làm cùn ngọn giáo  của mình khi dự báo lạm phát vào những năm 1980 thường xuyên sai nặng”.  
  Đến năm 2004, Báo cáo Kinh tế của Tổng  thống, do chính các nhà kinh tế rất bảo thủ trong chính quyền Bush viết đã đưa  ra tuyên bố chống chính sách quá trọng tiền khi cho rằng “chính sách tiền tệ  mạnh mẽ” – không phải một chính sách ổn định, tăng đều đặn, mà là mạnh mẽ – “có  thể làm giảm cường độ của một cuộc suy thoái”
  Bây giờ nói về Nhật Bản. Trong những năm  1990 Nhật Bản đã trải qua một sự lập lại nhưng ở mức yếu hơn cuộc Đại Suy thoái.  Tỷ lệ thất nghiệp không cao bằng thời kỳ Suy thoái nhờ những công trình công  cộng quy mô đồ sộ mà Nhật Bản, với dân số ít hơn dân số Mỹ nhưng lại đổ nhiều  bê-tông mỗi năm hơn Mỹ. Nhưng tình trạng lãi suất rất thấp của cuộc đại suy  thoái lại tái hiện. Vào năm 1998, lãi suất liên ngân hàng, tỉ lệ vay qua đêm  giữa các ngân hàng, chính xác bằng không.
  Trong những điều kiện như vậy, chính  sách tiền tệ đã tỏ ra không hiệu quả như Keynes đã nói trong những năm 1930.  Ngân hàng Nhật Bản, cơ quan tương đương CDTLB, đã gia tăng cơ số tiền tệ. Nhưng  những đồng Yên phát hành thêm được tích trữ chứ không được đưa vào chi tiêu. Một vài nhà kinh tế Nhật Bản đã nói với tôi vào lúc đó rằng thứ hàng hóa  tiêu dùng bền vững bán chạy duy nhất là két sắt. Thực tế, Ngân hàng Nhật Bản đã  nhận ra là thậm chí chính nó cũng không thể gia tăng lượng cung tiền nhiều như  nó muốn. Nó đã đẩy những lượng tiền mặt khổng lồ vào lưu thông, nhưng các chỉ số  đo lường lượng cung tiền hiểu theo nghĩa rộng tăng rất ít. Sự phục hồi kinh tế  cuối cùng bắt đầu một vài năm trước đây, nhờ vào sự hồi sinh của hoạt động đầu  tư kinh doanh để tận dụng những cơ hội công nghệ mới. Nhưng chính sách tiền tệ  thì chưa bao giờ có khả năng tạo ra bất kỳ lực kéo nào.
  Thực tế, Nhật Bản trong những năm 90 đã  đưa ra một cơ hội mới để kiểm chứng quan điểm của Friedman và Keynes về hiệu quả  của chính sách tiền tệ trong điều kiện suy thoái. Và kết quả rõ ràng ủng hộ sự  bi quan của Keynes hơn là sự lạc quan (vào chính sách tiền tệ) của Friedman.
  4.
  Vào năm 1946, Milton Friedman xuất hiện  lần đầu tiên như một người quảng bá cho kinh tế học thị trường tự do với một tựa  sách nhỏ “Sàn hay trần: Vấn đề nhà ở hiện tại” (Roofs or Ceilings: The  Current Housing Problem), đồng tác giả với George J. Stigler, người sau này sẽ cùng ông làm việc tại Đại học Chicago. Cuốn sách này công kích những biện pháp kiểm soát tiền thuê nhà vốn vẫn phổ biến sau Thế chiến II, được phát hành trong một bối cảnh khá lạ: nó là một ấn phẩm của Quỹ Giáo dục Kinh tế học (FEE), một tổ chức mà, như Rick Perlstein viết trong Trước cơn bão - Before the Storm (2001) cuốn sách về nguồn gốc của phong trào bảo thủ cận  đại, là “đã truyền giảng thánh kinh về tự do chủ nghĩa không khoan nhượng đến  nỗi nó rất gần với chủ nghĩa vô chính phủ”. Robert Welch, nhà sáng lập Hội John  Birch [một tổ chức kỳ thị da mầu – ND chú thích] là thành viên hội đồng quản trị  của FEE. Cuộc xuất quân đầu tiên này nhằm quảng bá thị trường tự do báo trước  hai con đường trong sự nghiệp của Friedman như một trí thức của công chúng qua  sáu thập kỷ tiếp theo.
  Trước hết, cuốn sách minh chứng rằng  Friedman đặc biệt sốt sắng đẩy những ý tưởng về thị trường tự do tới giới hạn  tận cùng của lý luận. Ý tưởng cho rằng thị trường là cách phân phối hiệu quả  hàng hóa khan hiếm, hoặc đề xuất cho rằng những biện pháp kiểm soát giá vừa tạo  ra thiếu hụt vừa không hiệu quả chẳng có gì mới. Nhưng nhiều nhà kinh tế, do e  ngại phản ứng dữ dội chống lại việc tăng đột ngột tiền thuê nhà (mà Friedman và  Stigler dự đoán sẽ vào khoảng 30% trên toàn quốc), đã đề xuất một dạng chuyển  tiếp từ từ trước khi bãi bỏ kiểm soát. Friedman và Stigler thì gạt bỏ tất cả  những sự lo lắng như vậy.
  Trong những thập kỷ tiếp theo, tính cách  không khoan nhượng này đã trở thành thương hiệu của Friedman. Hết lần này đến  lần khác, ông kêu gọi những giải pháp thị trường cho các vấn đề - giáo dục, sức khỏe, buôn bán dược phẩm bất hợp pháp – mà hầu hết mọi người  đều nghĩ rằng cần sự can thiệp nhiều hơn của chính phủ. Vài ý tưởng của ông đã  nhận được sự chấp nhận rộng rãi, như thay thế các luật lệ cứng nhắc về ô nhiễm  bằng một hệ thống giấy phép ô nhiễm mà các công ty tự do mua bán. Một số khác,  như các phiếu học phí trường học, được ủng hộ rộng rãi bởi các phong trào bảo  thủ nhưng không thành công về mặt chính trị. Và một vài đề xuất của ông, như  việc loại bỏ các thủ tục cấp giấy phép (hành nghề) cho bác sĩ và giải tán Cục  Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) bị xem là kỳ quặc ngay cả với hầu hết những  người thủ cựu nhất.
  Thứ hai, cuốn sách này đã cho thấy  Friedman là một nhà tuyên truyền giỏi như thế nào. Nó được viết hay và sắc sảo.  Không có biệt ngữ; những luận điểm được thể hiện với những ví dụ được lựa chọn  khôn khéo từ thế giới thực, từ sự phục hồi nhanh chóng của San Francisco sau  trận động đất năm 1906, từ tình cảnh khốn khổ của một cựu chiến binh năm 1946,  tìm kiếm vô vọng một nơi tử tế để sống sau khi vừa xuất ngũ. Cùng một phong  cách, được làm nổi bật bằng video, sau này là dấu ấn của chuỗi chương trình  truyền hình nổi tiếng Tự do lựa chọn năm 1980 của Friedman.
  Rất có thể chính sách laissez-faire (tự  do kinh doanh toàn diện) vẫn lan rộng khắp thế giới, khởi đầu từ những năm 1970,  dù không có Milton Friedman. Nhưng cuộc vận động rất hiệu quả và bền bỉ của ông,  đại diện cho [quan điểm] thị trường tự do chắc chắn đã giúp thúc đẩy quá trình  này, cả ở Mỹ và trên thế giới. Ở bất kỳ phương diện nào - chủ nghĩa bảo hộ đối  đầu với tự do thương mại; các quy định đối đầu với sự bãi bỏ quy định, tiền  lương thiết lập qua sự thương lượng tập thể giữa công đoàn và người sử dụng lao  động và mức lương tối thiếu do chính phủ quy định đối đầu với mức lương do thị  trường thiết lập - thế giới đã vận động trên một con đường dài theo hướng mà  Friedman vạch ra. Và thậm chí còn ấn tượng hơn cả  những thành quả mà ông đạt được trong việc thay đổi các chính sách thực tế, ông  đã thay đổi cả những quan niệm truyền thống: hầu hết những người có thế lực đã  quay sang nghĩ theo lối tư duy của Friedman, tin như một sự hiển nhiên rằng sự  thay đổi chính sách kinh tế mà ông thúc đẩy đã có tác dụng tốt. Nhưng có đúng là  như vậy?
  Xét trước hết hiệu quả kinh tế vĩ mô của  kinh tế Mỹ. Chúng ta có dữ liệu thu nhập thực – là thu nhập đã được điều chỉnh  nhằm loại bỏ ảnh hưởng của lạm phát - của các gia đình Mỹ từ năm 1947 đến 2005.  Trong nửa đầu của 58 năm liên tục, từ năm 1947 đến năm 1976, Milton Friedman là  một tiếng kêu trong sa mạc, những ý tưởng của ông bị các nhà ra chính sách bỏ  qua. Nhưng nền kinh tế, với tất cả những sự không hiệu quả mà ông chỉ trích, đã  cải thiện đầy ấn tượng mức sống của hầu hết người dân Mỹ: thu nhập thực trung vị  (median income) tăng gấp đôi. Ngược lại, giai đoạn từ năm 1976 là giai đoạn mà  những ý kiến của Friedman ngày càng được chấp nhận. Dù vẫn còn đó vô khối sự can  thiệp của chính phủ mà ông vẫn phàn nàn, các chính sách thị trường tự do đã trở  nên phổ biến hơn trong thời gian này là điều không ai nghi ngờ. Tuy vậy tỷ lệ  tăng trưởng mức sống lại ít mạnh mẽ hơn giai đoạn trước: thu nhập thực trung vị  năm 2005 chỉ cao hơn 23% so với năm 1976.
  Lý do có một phần là do thế hệ hậu chiến thứ hai đã  tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn thế hệ thứ nhất - một thực tế có thể  gây ngạc nhiên với những người cho rằng khuynh hướng ngả về  thị trường tự do sản xuất ra lợi tức kinh tế lớn hơn. Nhưng nguyên nhân khác  quan trọng hơn gây ra sự tăng chậm hơn về mức sống gia đình là sự bất bình đẳng  kinh tế tăng nhanh không ngờ: trong lúc thế hệ hậu chiến thứ nhất thu nhập tăng  đều khắp dân cư thì từ cuối những năm 1970 thu nhập trung vị - tức là mức thu  nhập của một gia đình điển hình, tăng chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng thu nhập bình  quân - bao gồm mức thu nhập cao vọt của một nhóm thiểu số nhỏ tại đỉnh.  
  Điều này dẫn đến một vấn đề thú vị.  Milton Friedman thường quả quyết với những thính giả của ông rằng không cần phải  có những thể chế đặc biệt, như lương tối thiểu và nghiệp đoàn, nhằm mục đích đảm  bảo cho những người công nhân được chia sẻ lợi nhuận từ tăng trưởng kinh tế. Vào  năm 1976 ông nói với độc giả Newsweek rằng những câu chuyện cổ tích về tai họa  gây ra do những tên đại tư bản kẻ cướp là chuyện hoang đường thuần túy:
     Có lẽ không có giai đoạn nào khác  trong lịch sử, ở Mỹ hoặc bất cứ nước nào khác, mà những người bình thường tăng  mức sống của anh ta lên cao như trong thời kỳ giữa Nội chiến và Thế chiến I, khi  chủ nghĩa cá nhân không kiềm chế nổi lên mạnh mẽ nhất.
 
  (Thế còn khoảng thời gian 30 năm đáng  nhớ sau Thế chiến II, cũng bao quát phần lớn sự nghiệp của Friedman thì sao?).  Ngay trong những thập kỷ sau tuyên bố đó, khi tiền lương tối thiểu bị lạm phát  “bỏ rơi” lại phía sau và ảnh hưởng các nghiệp đoàn hầu như biến mất trong khu  vực tư nhân, những người làm công Mỹ thấy vận may của họ đến chậm trễ hơn mức  tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Friedman đã quá lạc quan về sự  hào phóng của bàn tay vô hình?
  Nói cho công bằng, có nhiều yếu tố tác  động vào cả tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập, nên chúng ta không thể đổ  mọi thất vọng lên đầu các chính sách theo học thuyết Friedman. Thế nhưng, xét  đến giả định phổ biến rằng các chính sách chuyển hướng theo thị trường tự do đã  làm những điều vĩ đại cho kinh tế Mỹ và cho mức sống của những người dân Mỹ bình  thường; thật đáng ngạc nhiên khi người ta không tìm thấy các dữ liệu ủng hộ quan  điểm này.
  Những chất vấn tương tự về bằng chứng rõ  ràng để chứng minh rằng những ý tưởng của Friedman thực sự mang lại kết quả  trong thực tế có thể còn được nêu lên, thậm chí còn lớn giọng hơn, khi xem xét  khu vực Mỹ Latin. Một thập kỷ trước, thành công của kinh tế Chilê, nơi những nhà  cố vấn Augusto Pinochet  từ trường đại học Chicago sử dụng các chính sách thị  trường tự do sau khi Pinochet nắm quyền vào năm 1973, thường được dẫn ra như  bằng chứng rằng các chính sách mang tinh thần của Friedman đã chỉ ra con đường  dẫn đến phát triển kinh tế thành công. Nhưng cho dù những quốc gia Latin khác,  từ Mexico đến Achentina, đã bước theo sự dẫn đường của Chile trong việc tự do  hóa thương mại, tư nhân hóa công nghiệp và bãi bỏ các quy định, câu chuyện thành  công của Chile đã không lặp lại.
  Ngược lại, sự nhận thức của hầu hết  người dân Mỹ Latin là những chính sách “tân tự do” đó đã thất bại: Sự cất cánh  kinh tế theo hứa hẹn chưa bao giờ xảy ra, trong khi tình trạng bất bình đẳng  trong thu nhập trở nên tồi tệ hơn. Tôi không có ý đổ lỗi tất cả những điều tồi  tệ ở khu vực Mỹ Latin cho trường phái Chicago, hoặc lý tưởng hóa những gì trước  đó; nhưng có một sự đối lập mạnh mẽ giữa cảm nhận rằng Friedman được minh oan và  kết quả thực tế tại các nền kinh tế chuyển từ chính sách can thiệp những thập kỷ  đầu thời hậu chiến sang chính sách thả lỏng kinh doanh.
  Về một chủ đề được thảo luận trong phạm  vi hẹp hơn, một trong những mục tiêu then chốt của Friedman là xem xét tính chất  phản tác dụng và vô ích của hầu hết các qui định (regulation)  nhà nước. Trong  bản cáo phó viết về George Stigler, người đã từng cộng  tác với ông, Friedman đã chọn tán dương chỉ trích quy  định trong ngành điện lực của Stigler, và lập luận của Stigler rằng những người  ra quy định thường đi đến chỗ phục vụ lợi ích của quy định đó hơn là lợi ích  chung. Vậy việc bãi bỏ các quy định đã diễn ra như thế nào?
  Việc bãi bỏ quy định về vận chuyển đường  bộ và hàng không bắt đầu từ cuối những năm 1970 đã khởi đầu ổn thỏa. Cả hai  trường hợp bãi bỏ quy định, trong khi không làm bất cứ ai hạnh phúc, đã dẫn đến  gia tăng cạnh tranh, giá nói chung thấp hơn, và hiệu quả cao hơn. Việc bãi bỏ  quy định về khí đốt tự nhiên cũng là một thành công.
  Nhưng làn sóng lớn tiếp theo về bãi bỏ  quy định, trong khu vực điện lực, lại là một câu chuyện khác. Cũng như cuộc  khủng hoảng những năm 1990 ở Nhật Bản đã cho thấy rằng những lo ngại của những  nhà kinh tế theo học thuyết Keynes về tính hiệu quả của chính sách tiền tệ không  phải là hoang đường, khủng hoảng ngành điện lực California năm 2000-2001 – trong  đó những công ty điện lực và những nhà kinh doanh năng lượng đã tạo ra một sự  thiếu hụt giả tạo để nâng giá lên - nhắc nhở chúng ta đến khía cạnh thực tế nằm  sau những câu chuyện cổ tích về những ông trùm tư bản chuyên chiếm đoạt và những  sự chiếm đoạt của họ. Trong khi những bang khác không trải qua sự khó khăn như  California, bãi bỏ quy định về điện lực trên đất nước đã làm cho giá cao hơn chứ  không thấp hơn, với lợi nhuận lớn bất ngờ cho các công ty điện lực.
  Những bang, với bất cứ nguyên nhân nào,  không đi theo phong trào bãi bỏ quy định trong những năm 1990, hiện tự coi là  mình may mắn. Và may mắn nhất là những thành phố không biết nhờ đâu mà không  nhận được những thông điệp về tai họa do chính phủ gây ra và ưu điểm của khu vực  tư nhân, vẫn duy trì những công ty điện lực có sở hữu công cộng. Tất cả những  điều này cho thấy rằng căn cơ nguyên thủy của quy định về điện lực - những quan  sát cho thấy nếu không có quy định, các công ty điện lực sẽ có quá nhiều sức  mạnh độc quyền – vẫn đúng như thuở nào.
  Chúng ta có nên kết luận rằng việc bãi  bỏ các quy định là một ý tưởng tồi? Không- nó phụ thuộc vào từng trường hợp cụ  thể. Kết luận rằng bãi bỏ các quy định luôn luôn và ở bất cứ đâu là ý tưởng tồi  sẽ khuyến khích một vài lối suy nghĩ chuyên chế mà, có thể cho rằng, đó cũng là  thiếu sót vĩ đại nhất của Milton Friedman.
  Trong bài điểm sách năm 1965 về cuốn  Lịch sử tiền tệ của Friedman và Schwartz, James Tobin nhà kinh tế đoạt giải  Nobel của đại học Yale có nhẹ nhàng trách móc các tác giả đã đi quá xa. “Xem xét  ba mệnh đề dưới đây”, ông viết “Tiền không quan trọng. Tiền cũng quan trọng.  Tiến là tất cả những gì quan trọng. Rất dễ trượt từ mệnh đề thứ hai sang mệnh đề  thứ ba.” Và ông thêm vào rằng “với sự nhiệt tình và hăm hở của họ”, Friedman và  những môn đồ của ông thường phạm phải điều đó.
  Một sự tiếp nối tương tự dường như đã  xảy ra trong việc Milton Friedman ủng hộ kinh tế tự do. Sau cuộc Đại Suy thoái,  có nhiều người nói rằng thị trường không thể có hiệu quả. Friedman đã có sự can  đảm của người trí thức để nói rằng thị trường có thể cũng có hiệu quả, và khả  năng "làm xiếc" cùng với khả năng sắp xếp các bằng chứng đã biến ông thành người phát ngôn giỏi nhất về tính ưu việt của thị trường  tự do kể từ Adam Smith. Nhưng ông đã quá dễ dãi xác quyết: thị trường luôn luôn  hiệu quả và chỉ thị trường mới vận hành hiệu quả. Rất khó tìm ra những trường  hợp mà Friedman thừa nhận khả năng thị trường có thể sai lầm, hay sự can thiệp  của chính phủ có thể phục vụ mục đích có ích.
  Chủ nghĩa độc tôn thị trường tự do của  Friedman góp phần tạo ra một xu thế tri thức ở đó sự tin tưởng vào thị trường và  coi thường chính phủ lại thường dẫn đến bịa đặt bằng chứng. Các nước đang phát  triển đua nhau mở cửa thị trường vốn, bất chấp cảnh báo rằng điều này có thể đặt  họ vào tình trạng khủng hoảng tài chính; rồi khi khủng hoảng nổ ra, nhiều nhà  quan sát đổ lỗi cho chính phủ của các nước này, chứ không phải cho sự thiếu ổn  định của dòng vốn quốc tế. Việc theo đuổi chính sách bãi bỏ các quy định về điện  năng bất chấp cảnh báo rõ ràng rằng điện lực độc quyền có thể là một vấn đề;  trên thực tế, thậm chí khi khủng hoảng năng lượng ở California xảy ra, hầu hết  những nhà bình luận đều gạt bỏ ý kiến về hiện tượng “làm giá” như một loại giả  thuyết âm mưu. Những quan điểm bảo thủ tiếp tục cho rằng rằng thị trường tự do  là giải pháp cho cuộc khủng hoảng của ngành y tế, bất chấp vô số bằng chứng  chứng minh điều ngược lại.
  Điều kỳ lạ về tính độc đoán của Friedman  liên quan đến các ưu việt của thị trường và các khuyết tật của chính phủ, là  trong các công trình của ông dưới tư cách nhà kinh tế của các nhà kinh tế ông  chính là một hình mẫu tiết chế. Như tôi đã chỉ ra trước đó, ông đã có những đóng  góp vĩ đại vào lý thuyết kinh tế, làm nổi bật vai trò hành vi hợp lý của cá nhân  – nhưng không giống như một vài đồng nghiệp của ông, ông biết đâu là điểm dừng.  Tại sao ông không thể hiện sự tiết chế đó trong vai trò trí thức trước công luận  của mình?
  Câu trả lời, tôi ngờ rằng, là ông đã bị  cuốn hút vào vai trò thật ra mang tính chính trị. Milton Friedman nhà kinh tế  gia vĩ đại có thể và đã chấp nhận sự mơ hồ. Nhưng Milton Friedman nhà quán quân  vĩ đại của thị trường tự do thực hiện sự mong chờ của người khác đã thuyết giáo  về niềm tin chân lý, không một mảy may hoài nghi. Và cuối cùng ông đã đóng vai  trò mà những môn đồ của ông mong đợi. Kết quả là, theo thời gian xu hướng đả phá  thần tượng của ông trong thời kỳ đầu của sự nghiệp đã biến thành một thành trì  cứng nhắc bảo vệ cho cái đã trở thành một chính thống mới.
  Về lâu dài, những con người vĩ đại được  nhớ đến với sức mạnh chứ không phải điểm yếu của họ, và Milton Friedman thực sự  là một con người rất vĩ đại - một con người của sự can đảm trí thức, nhà tư  tưởng kinh tế quan trọng nhất của mọi thời, và có thể là người truyền bá những  tư tưởng kinh tế lỗi lạc nhất đến công chúng từ xưa đến nay. Nhưng cũng rất đúng  khi lập luận rằng học thuyết Friedman, cuối cùng, đã đi quá xa, cả về mặt học  thuyết và ứng dụng thực tế. Khi Friedman bắt đầu sự nghiệp của mình như một trí  thức của công chúng, thời gian đã chín muồi cho một cuộc cải cách ngược chống  lại chủ nghĩa Keynes và tất cả những gì đi với nó. Nhưng, tôi cho rằng điều thế  giới đang cần là một cuộc cải cách chống lại cuộc cải cách ngược ấy.
   Nguyên tác: Paul Krugman,  “Who Was Milton Friedman?”, New York Review of Books, Bộ 54, Số 2, 15   tháng 2, 2007
  Người dịch: Trương Trí   Vĩnh và toà soạn Thời Đại Mới